Trải qua 8 năm kháng chiến kiến quốc trong khi lực lượng kháng chiến Việt Nam ngày càng lớn mạnh. Thực dân Pháp thiệt hại ngày càng lớn, đến giữa năm 1953 Pháp bị loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 39 vạn quân, vùng chiếm đóng bị thu hẹp, lâm vào thế bị động trên chiến trường. Tại nước Pháp, tình hình chính trị bất ổn, chi phí cho chiến tranh ngày càng cao làm cho nền kinh tế tài chính kiệt quệ. Bên cạnh đó, Mĩ ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
Ngày 7/5/1953, được sự thoả thuận của Mĩ, chính phủ Pháp cử tướng Navarre làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Navarre đề ra kế hoạch quân sự với hi vọng trong 18 tháng sẽ giành thắng lợi quyết định để “kết thúc chiến tranh trong danh dự”. Kế hoạch Navarre ra đời, được chia thành 2 bước:
Bước 1: Từ Thu Đông 1953 - Xuân 1954: giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ, tiến công chiến lược để bình định Trung Bộ và Nam Đông Dương, đồng thời tăng cường xây dựng quân đội tay sai, tập trung binh lực xây dựng lực lượng cơ động chiến lược mạnh.
Bước 2: Từ Thu Đông 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường Bắc Bộ, thực hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quân sự quyết định buộc Việt Minh phải đàm phán theo những điều kiện có lợi cho Pháp, nhằm kết thúc chiến tranh.
Thực hiện kế hoạch đã đề ra, từ Thu Đông 1953, Navarre tập trung lực lượng quân cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ 44 tiểu đoàn (trong tổng số 84 tiểu đoàn cơ động chiến lược trên toàn Đông Dương), mở rộng hoạt động thổ phỉ, biệt kích ở vùng rừng núi, biên giới, mở cuộc tiến công lớn vào vùng giáp giới Ninh Bình, Thanh Hoá.
Về phía quân ta, trước sự thay đổi của cục diện chiến tranh ở Đông Dương và trên cơ sở nhận định âm mưu mới của Pháp và Mĩ, tháng 9/1953, Bộ Chính trị trung ương Đảng họp và đề ra kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953 - 1954. Phương hướng chiến lược: Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công lớn vào những hướng quan trọng mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, buộc địch phải bị động phân tán lực lượng để đối phó ở những nơi xung yếu mà chúng không thể bỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho ta tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch; phương châm chiến lược: “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”, “đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc thắng thì đánh cho kì thắng, không chắc thắng kiên quyết không đánh” .
Ngày 10/12/1953, ta điều động một bộ phận quân chủ lực tiến công địch ở Lai Châu và bao vây uy hiếp địch ở Điên Biên Phủ. Ta loại khỏi vòng chiến đấu 24 đại đội địch, giải phóng thị xã Lai Châu. Địch điều quân tăng cường cho Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung binh lực thứ hai sau đồng bằng Bắc Bộ.
Đầu tháng 12/1953, phối hợp với quân giải phóng Lào tiến công Trung Lào, tiêu diệt trên 3 tiểu đoàn Âu - Phi, giải phóng tỉnh Thà Khẹt, bao vây uy hiếp Sê Nô. Navarre lại phải vội vã điều quân từ đồng bằng Bắc Bộ sang ứng cứu cho Sênô. Như vậy Sênô trở thành nơi tập trung binh lực thứ ba của Pháp ở Đông Dương
Đầu tháng 2/1954, ta tiếp tục tiến công địch ở Bắc Tây Nguyên, giải phóng Kon Tum uy hiếp Playku, loại khỏi vòng chiến đấu 2 000 địch. Navarre lại phải điều quân từ Nam Tây Nguyên lên ứng cứu cho Playku, biến Playku thành nơi tập trung binh lực thứ tư.
Cũng trong tháng 2/1954, liên quân Việt - Lào mở cuộc tấn công ở Thượng Lào, giải phóng Nậm Hu, Phongxalì, uy hiếp Luông Phabang và Mường Sài, căn cứ kháng chiến của Nhân dân Lào được mở rộng thêm gần 10.000 km2. Navarre lại phải tăng cường lực lượng bằng đường hàng không sang nhằm chốt giữ Luông Phabang, biến nơi này thành nơi tập trung binh lực thứ năm của địch.
Phối hợp với mặt trận chính diện, chiến tranh du kích vùng sau lưng địch phát triển mạnh, tiêu diệt, hiêu hao nhiều sinh lực địch làm cho chúng không có khả năng tiếp ứng cho nhau. Ở Nam Bộ, các tiểu đoàn chủ lực khu, chủ lực tỉnh tiến vào vùng tạm chiếm để tiêu diệt địch, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của Nhân dân kết hợp với địch vận. Ở Nam Trung Bộ, chiến tranh du kích phát triển mạnh, bao vây bức rút hàng loạt cứ điểm, đồn bốt địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn như Điện Bàn (Quảng Nam) với 4 vạn dân. Ở mặt trận Bình - Trị - Thiên, quân ta hoạt động mạnh trên tuyến đường sắt và Đường số 1, nhiều đoàn tàu, xe của địch bị tiêu diệt. Ở đồng bằng Bắc Bộ, du kích tiến hành tập kích địch trên tuyến đường Hà Nội - Hải Phòng, phá hủy nhiều tàu, xe. Nhiều đô thị, ngay cả Hà Nội và các sân bay Cát Bi (Hải Phòng), Gia Lâm (Hà Nội) cũng bị quân ta tập kích, phá hủy nhiều máy bay.
Như vậy trong Đông Xuân 1953 - 1954, quân và dân ta đã chủ đông tấn công địch trên mọi hướng chiến lược khác nhau. Qua đó ta tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn ở đồng thời buộc chúng phải phân tán khối quân cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ thành năm điểm đóng quân: Đồng bằng Bắc Bộ , Điện Biên Phủ, Sênô, Playcu, Luông Phabang, làm cho kế hoạch Navarre bước đầu bị phá sản.
Trước tình hình đó, nhằm cứu vãn kế hoạch Navarre, Pháp tiến hành xây dựng căn cứ quân sự ở Điện Biên Phủ dưới dạng Tập đoàn cứ điểm. Tổng số binh lực địch ở đây lúc cao nhất có tới 16.200 quân, được bố trí thành ba phân khu: phân khu Bắc, phân khu Trung tâm ở ngay giữa Mường Thanh, nơi đặt sở chỉ huy, có trận địa pháo, kho hậu cần, sân bay, tập trung 2/3 lực lượng; phân khu Nam, gồm tổng cộng 49 cứ điểm.
Đầu tháng 12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp, thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt lực lượng địch đang tập trung ở Điện Biên Phủ, giải phóng vùng Tây Bắc, giáng đòn quyết định vào Thực dân Pháp, kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương đã kéo dài nhiều năm.
Để chuẩn bị cho chiến dịch, ta đã huy động lực lượng lớn gồm 4 đại đoàn bộ binh 304, 308, 312, 316, 1 đại đoàn công pháo 351và nhiều tiểu đoàn công binh, thông tin, vận tải, quân y v.v…với tổng số khoảng 55.000 quân; hàng chục nghìn tấn vũ khí đạn dược, 27.000 tấn gạo với 628 ô tô vận tải, 11.800 thuyền bè, gần 21.000 xe đạp, hàng nghìn xe ngựa, trâu, bò v.v… chuyển ra mặt trận.
Chiến dịch Điện Biên Phủ chia làm 3 đợt:
Đợt 1, từ ngày 133 đến ngày 17/3/1954: quân ta tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc gồm Độc lập và Bản Kéo, loại khỏi vòng chiến đấu gần 2000 tên địch, mở thông cánh cửa vào trung tâm Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Đợt 2, từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954: quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông như E1, D1, D2, D3, C1, C2, A1 v.v.. Cũng như đợt đầu, ta nhanh chóng chiếm phần lớn các cứ điểm của địch, tạo thêm điều kiện để bao vây, chia cắt, khống chế địch và hỗ trợ chiến đấu tại các cao điểm khác. Cuộc kháng cự quyết liệt tại A1 và C2 kéo dài, trong khi địch liên tiếp kháng cự nhằm chiếm lại những cứ điểm đã mất. Ta kịp thời khắc phục khó khăn về tiếp tế, hậu cần, lực lượng chiến đấy, nâng cao quyết tâm giành thắng lợi.
Đợt 3, từ ngày 1/5 đến ngày 7/5/1954: quân ta đồng loạt tiến công một số cứ điểm còn lại phân khu Trung tâm, các ổ đề kháng còn lại quanh cầu Mường Thanh. Chiều 7/5, quân ta tổng tiến công, đánh vào Sở chỉ huy địch. 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, De Castries cùng toàn bộ Ban tham mưu đầu hàng và bị bắt sống.
Các chiến trường toàn quốc đã phối hợp chặt chẽ nhằm phân tán, tiêu hao, kìm chân địch, tạo điều kiện cho Điện Biên Phủ giành thắng lợi. Ở Bắc Bộ, bộ đội Hà Nội đột nhập sân bay Gia Lâm, phá hủy 18 máy bay. Các đơn vị bộ đội địa phương và dân quân du kích làm tê liệt Đường số 5, tiêu diệt nhiều đồn bốt vùng sau lưng địch, phần lớn đồng bằng Bắc Bộ được giải phóng. Ở Trung Bộ, quân dân liên khu V chặn đứng đợt tiến công Áttăng lần thứ 2, diệt gần 5.000 tên địch. Bộ đội Tây Nguyên đánh mạnh trên các Đường số 19 và tập kích lần thứ 2 vào thị xã Playku, diệt nhiều tên địch. Ở Nam Bộ, kết hợp với các cuộc tiến công của bộ đội, Nhân dân nổi dậy vừa uy hiếp, vừa làm công tác binh vận, đã bức rút hoặc diệt hàng nghìn đồn bốt, tháp canh của địch. Tại Sài Gòn và các đô thị, phong trào đấu tranh chính trị đòi hòa bình, cải thiện dân sinh và chiến tranh du kích dấy lên mạnh mẽ.
Cuộc Tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 128.200 tên địch, thu 19.000 súng các loại, bắn cháy và phá hủy 162 máy bay, 81 đại bác, giải phóng nhiều vùng rộng lớn trong cả nước. Riêng tại mặt trận Điện Biên Phủ, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 địch, trong đó có 1 thiếu tướng, hạ 62 máy bay các loại, thu toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh.
Thắng lợi của cuộc Tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã đập tan hoàn toàn kế hoạch Navarre, giáng đòn quyết định vào âm mưu thông tính Đông Dương của Thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Đông Dương, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơnevơ, công nhận độc lập, chủ quyền của 3 nước Việt nam, Lào, Campuchia./.