Rất nhiều nhạc sĩ, họa sĩ, nhà văn lên đường tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ để thể hiện, sáng tác và kể lại Điện Biên Phủ bằng thơ ca, câu hát. Tuy nhiên rất nhiều bài thơ được ra đời trong chiến dịch Điện Biên Phủ bởi những chính những chiến sĩ mà nhiệm vụ chính của họ là cầm súng giết giặc.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, giữa sinh hoạt, lao động và chiến đấu, tuy gian khổ, khốc liệt nhưng các cán bộ, chiến sĩ của ta vẫn lạc quan, yêu đời. Những bài hát, câu thơ, câu hò vẫn cất lên giữa trận địa, chiến hào, giữa đồng đội, đồng chí mình. Câu từ giản dị, lời ca chân chất, mộc mạc nhưng đó là những bài thơ hoan hỉ về những thắng lợi nhỏ của quân ta, những lời động viên nhau cùng cố gắng hoặc tình cảnh khốn khó của quân Pháp. Đối với mỗi người chiến sĩ, đó là nguồn cổ vũ tinh thần mãnh liệt để vượt qua khó khăn, tiếp thêm sức mạnh để chiến đấu, hoàn thành sự nghiệp giải phóng đất nước, đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi nước nhà.
Bảo vệ lực lượng để chiến đấu thắng lợi
Cấp trên đã dạy chúng ta
Bảo vệ lực lượng để mà thắng Tây.
Lạ gì đế quốc xưa nay
Do thám, biệt kích, tàu bay bà già.
Đêm ngày dò xét chúng ta
Để lộ bí mật ắt là bị bom…
Cách đây chừng độ mấy hôm
Có đơn vị X nấu cơm ban ngày.
Ăn xong cho lệnh đi ngay
Đồng quang, trời nắng ban ngày cứ qua.
Bà già khuất núi bay ra
Thấy đơn vị X kéo qua cánh đồng;
Sè sè nó lượng một vòng
Gọi bốn hen cát tấn công một hồi.
Thương vong mất một số người
Cấp trên lãnh đạo kịp thời kiểm tra:
Chủ quan cán bộ mà ra
Bảo mật lơ là thiệt hại không đâu
Gương trên ta nhắc nhở nhau
Kinh nghiệm xương máu, dám đâu lơ là
Nhớ trên lại nhắc chúng ta
Bảo vệ lực lượng để mà thắng Tây.
(Tác giả Đặng Ái, tháng3/1954)
Sau chiến thắng tại Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo, ta đã khai thông được cánh cửa phía Bắc và Đông Bắc vào trung tâm Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Thắng lợi nhanh chóng của đợt tấn công thứ nhất này đã khiến cho quân giặc khiếp sợ và cũng là tiền đề cho những cuộc tấn công tiếp theo của quân ta, từng bước tiêu diệt “con nhím” Điện Biên Phủ.
Cờ trắng
Từ hôm quân ta tấn công
Điện Biên liên tiếp mất phăng hai đồn;
Ngụy, Âu đều rúc xuống hầm
Ngày đêm chẳng có một thằng ló ra.
Khu D sợ lộ, hạ cờ
Tam tài xếp xó, cột trơ giữa đồn;
Phi công địch cũng hoảng hồn
Thả dù bừa bãi để chuồn cho mau;
Có một dù lụa trắng phau
Lửng lơ rơi xuống mắc đầu cột kia.
Gió đưa dù trắng phất phơ
Khác nào như ngọn cờ thua, cờ hàng;
Nhìn cờ lũ giặc hoang mang
Nhưng không một đứa cả gan ra ngoài;
Chiếc dù trắng cứ đùa dai
Gió đưa “cờ’ phất phơ hoài thảm thê.
Quân ta vây hãm bốn bề
Nhìn cờ trắng ở khu D mỉm cười;
Cười rằng: Tây hỡi, Tây ơi!
Trước sau bay cũng đi đời nhà ma!.
(Tạ Hữu Thiên, tháng 3/1954)
Từ cuối tháng 3, bằng hỏa lực của pháo cao xạ và đẩy mạnh hoạt động Săn tây bắn tỉa, ta đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, địch phải chui rúc ăn ở trong những hầm cố thủ không dám ló mặt ra ngoài. Thế nên mới có câu chuyện tên quan Tây ra ngoài vệ sinh bị chính đạn lính mình giết chết, được kể lại bằng bài thơ Đạn Tây lại giết Tây:
Tụi lính Tây ở Điện Biên Phủ,
Bị ta vây ăn ngủ không yên;
8 giờ tối đã tắt đèn
Lăm lăm súng đạn ở bên cạnh người!
Thiết quân luật khắp nơi đồn trại
Cấm không ai ra khỏi nhà hầm;
Dẫu rằng tứ phía kín bưng
Lũ Tây hốt hoảng đêm nằm vẫn lo.
Động một tiếng nhỏ to sột soạt
Là bắn tràng hàng loạt liên thanh;
Một đêm gió mát trăng thanh
Khắp vùng đồng ruộng hiền lãnh như không.
Có thằng đội dáng chừng thổ tả,
Bụng chương phềnh nhăm nhó kêu la;
Rón chân mở cửa mò ra
Tìm nơi tháo cống cho qua cơn buồn.
Không đèn đóm lom khom như khỉ
Ôm bụng dò hố sí phát ra;
Lênh khênh chân nọ chân kia
Thụt ngay xuống hố bét nhè những phân.
Miệng cáu kỉnh kêu rầm lên “Mẹc”!
Bật lửa soi cho biết mô tê;
Trong đồn nửa tỉnh nửa mê
Nghe động lại thấy lập lòe lửa soi.
Thế là nổ liên hồi súng máy
Thằng đội Tây vội nhảy xuống chờ;
Lính trong đồn vẫn không ta
Càng kêu càng bắn như mưa trên đầu.
Súng nổ một hồi lâu rộn ra
Rồi lính Tây lại ngủ lại mê
Sáng bừng mắt dậy “Ô kìa”
Thằng đội chết cứng bết bê cứt vàng
….
(Lê Kim, tháng 3/1954)
Cũng từ cuối tháng 3, ta kiểm soát được sân bay Mường Thanh, Pháp không thể hạ cánh để tiếp viện cho quân đồn trú ở Mường Thanh, đành phải bay cao thả dù. Việc thả dù cũng gặp nhiều bất lợi vì sức gió và hỏa lực của ta nên vàng về sau, chúng càng phải bay cao hơn. Vì thế, rất nhiều dù hàng lạc sang phía trận địa cảu ta hoặc bị quân ta chiếm được.
Lững lờ dù hạ đến tay chúng mình
Từ hôm bộ đội bao vây
Điện Biên bọn giặc hàng ngày đói meo.
Đói đến nỗi lính theo quan đội
Bắt chuột về nướng vội mà ăn;
Sáng qua đang lúc băn khoăn,
Chuột trù cũng hết biết lần cái chi.
Bỗng có tiếng ầm ì vọng lại,
Trong mây mù thò cái may bay;
Chó vàng cùng với chó Tây
Vẫy đuôi nhảy cẫng vỗ tay reo hò.
Thằng quan sáu cũng bò ra cửa
Hau háu nhìn dù mở lung tung;
Thằng nào thằng ấy vui mừng
Ngờ đâu ta nổ pháo “đùng” cạnh bên.
Thằng cụt tay mồm rên ứ hự
Thằng mất đầu nằm lử quay đơ;
Thằng chưa bị đạn chạy xô
Vào hầm trống ngực đập như trống làng.
Lại trên không đoàng đoàng cao xạ
Thằng phi công càng sợ càng run;
Vội vàng vứt xuống ùn ùn
Dù trắng, dù đỏ, dù vàng, dù xanh.
Mong vứt xuống thật nhanh mà lếch
Kẻo ăn đòn mất xác ở đây;
Dù mở, được gió, dù bay
Lửng lơ dù hạ đến tay chúng mình.
Từ buổi ấy chúng kinh không dám
Ra khỏi hầm lảng vảng chết toi;
Chúng bèn khoét một ống hơi,
Trong hầm vừa thở vừa soi xem dù.
(Phác Vân, tháng 4/1954)
Hay bài thơ: Mừng anh thiện xạ
Đốn đời cho lũ giặc Tây
Ở Điện Biên Phủ sống ngày như đêm
Quân ta vậy bốn bên chặt chẽ
Chia từng người “chim sẻ” tiêu hao.
Tây mà đi lại miệng hào
Súng trường ta tỉa lộn nhào chết tươi!
Nhớ câu chuyện nực cười thắt ruột
Rằng một hôm có 1 thằng Tây
Dáng chừng mót quá loay hoay
Nhìn ngang nhìn ngửa trèo ngay lên hào
Đang cái lúc: Ối chao là sướng
Ngồi rung rinh bụng tưởng là yên.
Ngờ đâu bộ đội cạnh bên
Bóp cò đánh “độp” đạn ghim vỡ đầu!
Chỉ kịp rẫy chẳng kêu gì được
Lăn đùng ngay không kịp thở than
Lòng anh bộ đội hân hoan:
Mừng anh thiện xạ của đoàn giỏi ghê!
Còn lũ giặc thảm thê tái mặt,
Lính nhìn quan, quan gắt lung tung:
“Đồ ngu như lợn không cùng
Đi ngoài cũng chết còn hòng làm chi?”
Thế rồi quan khóc tỷ ty
“Ối trời một lính âm ty nữa rồi!”
Tây hời, Tây hỡi, Tây ơi!
Tao còn đánh tỉa, Tây thời đi … Tây!”
(Phác Văn tháng 4/1954)
Chiến đấu xa nhà, cái chết cận kề trước mắt, bộ đội ta không nguôi nhớ thương quê nhà. Cứ mỗi cánh thư đến được tay chiến sĩ, đó không chỉ là thư nhà, thư mẹ của một người, mà là thư của cả tổ đội, đồng chí mình nữa. Mỗi lá thư sẽ tiếp thêm sức mạnh cho các chiến sĩ vững tâm, quyết chiến đấu đến cùng cho tới ngày độc lập, hòa bình.
Đọc thư hậu phương
Đọc thư trên trận địa
Anh đội viên nghĩ gì?
Mà anh đang ngắm nghía,
Vuốt vuốt cái lưỡi lê.
Mà anh đang mân mê
Viên đạn đồng nhẵn bóng.
Mà anh đang ngắm súng
Như ngắm một người yêu.
Vì anh đang nghĩ nhiều
Đến bao người yêu dấu.
Để giữ trọn đòi đời
Một cuộc sống tươi vui
Anh hằng tha thiết nhất
- Mẹ anh đang cuốc đất
Để trồng thêm lúa khoai
Rồi em gái em trai
Rồi đứa con xinh xắn.
Chúng đang cười tươi tắn
Đang cắp sách tới trường
Chân nhảy miệng hát vang,
Những bài ca chiến thắng.
- Vợ anh người trong trắng
Đang chăm học, chăm làm,
Đang hăng hái họp đoàn
Đấu tranh diệt địa chủ.
Rồi luống khoai luống củ
Đang xanh mướt mầm tơ
Rồi con lợn con bò,
Đang lớn nhanh như thổi.
Nồi cơm, manh áo mới
Hạnh phúc đầy tương lai.
…
(Xuân Thủ, tháng 4/1954)
Đó chỉ là số ít trong vô số những bài thơ được sáng tác trong chiến dịch Điện Biên Phủ bởi những con người tay quen cầm súng, lòng quen dũng cảm và căm thù giặc sâu sắc, để đến khi cầm bút, dù đó chỉ là những vần thơ chân phương, dung dị, có đôi lúc lạc nhịp mà vẫn toát lên lòng yêu nước đến tha thiết, cháy bỏng./.