Anh hùng Tô Vĩnh Diện (1924-1954) quê ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Từ nhỏ đồng chí đã phải cùng mẹ lên núi Nưa lấy củi kiếm sống, năm 15 tuổi làm tá điền cho địa chủ Mậu Thôn. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, rồi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ trên toàn quốc đã đưa Tô Vĩnh Diện đến với cách mạng, sống và chiến đấu vì độc lập Tổ quốc.

Năm 1946 khi mới 22 tuổi đồng chí Tô Vĩnh Diện tham gia và dần trở thành chỉ huy dân quân ở địa phương. Năm 1949, đồng chí xung phong vào bộ đội, chiến đấu ở nhiều vị trí, nhiều đơn vị, luôn gương mẫu, đi đầu, vượt qua khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Tháng 3 năm 1953 đồng chí Tô Vĩnh Diện được triệu tập để tham gia lực lượng pháo phòng không sắp thành lập, khi đơn vị pháo cao xạ được thành lập đồng chí cùng đơn vị sang Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc để huấn luyện. Trong thời gian huấn luyện, đồng chí được chỉ định là Trung đội phó thuộc Đại đội 829, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367 và được kết nạp vào Đảng lao động Việt Nam.

Tháng 5 năm 1953, Quân đội Việt Nam thành lập các đơn vị pháo cao xạ đầu tiên để chuẩn bị cho trận đánh lớn, đồng chí Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37mm, Trung đội phó Trung đội 2, trực tiếp phụ trách Khẩu đội 3 thay Khẩu đội trưởng bị thương. Khẩu đội anh được giao sử dụng khẩu pháo cao xạ 37mm số hiệu 510681, thuộc loại pháo phòng không 37mm 1 nòng , mẫu 61-K kiểu M1939 có gắn lá chắn đạn với 2 cửa ngắm dành cho pháo thủ số 1 và số 2, do Liên Xô sản xuất và viện trợ cho Việt Nam, thuộc  Đại đội 827,  Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367,  Đại đoàn 351.

Cuối tháng 11 năm 1953 , Tiểu đoàn 383 và 394 là hai tiểu đoàn pháo cao xạ của quân đội ta đã từ Tân Dương – Trung Quốc trở về sau một khóa huấn luyện. Đến ngày 01/01/1953 chiếc xe kéo pháo cuối cùng đã vào tới khu rừng Tây Bắc thị xã Tuyên Quang. Những khẩu pháo 105mm  của quân đội ta cũng vừa trở về từ Vân Nam,Trung Quốc đoàn xe kéo pháo qua Lào Cai về Bảo Hà, tại đây các công nhân kỹ thuật tháo rời các bộ phận chuyển xuống những bè nứa chắc chắn, những thuyền đinh lớn xuôi về bến Âu Lâu đầu thị xã Yên Bái và xe pháo sẽ được lắp ráp lại sau đó hành quân theo đường bộ và đường sông đến căn cứ vừa tạo được yếu tố bất ngờ lại an toàn và bí mật. Các chiến sĩ đã hành quân trong đêm tối vượt qua đèo dốc quanh co và hiểm trở, mỗi đêm chỉ di chuyển từ 2 đến 4 xe chở đạn pháo, khí tài và các thiết bị khác trong điều kiện an toàn bí mật tuyệt đối.

Đến trung tuần tháng 12/1953, được lệnh xuất quân dù chưa biết nơi đến chiến sĩ ai nấy đều rất phấn khởi. Từ một căn cứ tại tỉnh Phú Thọ đi dọc sông Hồng qua bến Âu Lâu tiếp theo đường số 13 vượt đèo Lũng Lô rồi vượt sông Đà ở bến Tạ Khoa tới ngã ba Cò Nòi theo đường số 41 lên Tây Bắc. Ngày 21/ 12/1953, khi trực tiếp giao nhiệm vụ cho chính ủy Đại đoàn là đồng chí Phạm Ngọc Mậu và đồng chí Nguyễn Quang Bích trung đoàn phó Trung đoàn 367, Đại tướng Võ Nguyên Giáp căn dặn “lần đầu ra trận, lựu pháo và pháo cao xạ sẽ gặp nhiều khó khăn. Yêu cầu lớn nhất là đảm bảo tuyệt đối an toàn và bí mật. Nếu đưa được xe, pháo đến đích an toàn, bí mật thì coi như đạt 60% thắng lợi”. Đến thượng tuần tháng 12 năm 1953, hành quân đến thị xã Sơn La các chiến sĩ được lệnh tiến thẳng lên Điện Biên Phủ.

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, để đưa được pháo của quân đội ta Việt Nam về phía Bắc chiếm lĩnh các điểm cao, tập trung hỏa lực tiêu diệt các vị trí chiếm đóng của Tập Đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định thành lập Bộ chỉ huy kéo pháo do đồng chí Lê Trọng Tấn- Tư lệnh Đại đoàn 312, đồng chí Phạm Ngọc Mậu làm Chính ủy, đồng thời cử đồng chí Đỗ Đức Kiên – Trưởng ban tác chiến chiến dịch và một số cán bộ tham mưu xuống cùng bàn kế hoạch và kiểm tra đôn đốc việc kéo pháo vào trận địa.

7 giờ sáng ngày 15/1/1954, hơn 5000 cán bộ, chiến sỹ công binh của quân đội Việt Nam đã rải đều trên khắp các sườn núi với nhiệm vụ vừa cắm mốc, vừa làm hầm trú ẩn cho pháo. Dùng những dụng cụ thô sơ như dao, rìu, cuốc, xẻng, xà beng..., đào vào các sườn núi cao, rừng sâu hiểm trở, các chiến sỹ công binh lao động liên tục quên mình, mồ hôi, máu các chiến sỹ pha sương lạnh. Chỉ sau hơn 20 tiếng đồng hồ, con đường kéo pháo bằng tay với chiều dài 15km, rộng 3m từ bản Nà Nham- cây số 70, vượt qua đỉnh Pu Pha Sông cao gần 1.150m gặp đường đi Lai Châu ở bản Tâu được hoàn thành trước thời gian quy định là 4 tiếng. Suốt chặng đường hành quân đồng chí Tô Vĩnh Diện luôn hăng hái nhận mọi việc nặng nhọc, động viên đồng đội đưa các khẩu pháo đến nơi tập kết an toàn. Khi kéo pháo qua những chặng đường khó khăn gian khổ, đồng chí Tô Vĩnh Diện luôn xung phong lái pháo, dọc đường hành quân và lúc nghỉ ngơi đồng chí đều nhắc nhở và chủ động kiểm tra tỉ mỉ xe pháo, đường xá để tránh những nguy hiểm bất ngờ xảy ra.

Việc kéo pháo vào rất gian nan và vất vả, hoàn toàn dùng bằng sức người, có đoạn phải vượt qua những dãy núi cao như núi Pu Pha Sông cao 1.150m, với độ nghiêng từ 60 đến 70 độ. Vì đường kéo pháo nằm trong tầm bắn của địch, liên tiếp có những trận mưa bom bão đạn nên việc kéo pháo của ta chỉ thực hiện vào ban đêm. Đêm đêm, trên con đường kéo pháo, dưới ánh trăng rừng lạnh giá của tiết trời tháng Giêng, các chiến sĩ kéo pháo lưng ướt đẫm mồ hôi. Những đôi tay, đôi vai phồng rộp, những đôi mắt thâm quầng vì thiếu ngủ. Những tiếng mõ, tiếng “hò dô” vẫn âm vang lay động cả khu rừng. Người đẩy, người kéo, người bắt bánh, chèn bánh. Tất cả tạo nên bức tranh hùng tráng, khí thế quyết tâm chiến đấu giành độc lập tự do cho dân tộc. Trong đêm tối mịt mùng, hàng trăm bóng người bám vào dây pháo, trút hết sức mình ra đôi tay, đôi vai, đôi chân mà pháo vẫn chỉ nhích dần từng cm. Mặc dù khó khăn và vất vả, nhưng với tinh thần tất cả cho chiến dịch được toàn thắng. Đến ngày 24/01/1954, sau chín ngày đêm kéo pháo vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm bộ đội mới chỉ kéo được 1/3 trong tổng số 68 khẩu pháo hạng nặng các loại, còn 2/3 số pháo vẫn nằm rải rác trên tuyến đường. Dự định của Bộ chỉ huy là nổ súng mở màn chiến dịch vào 17 giờ ngày 25/01/1954, nhưng Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng với Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định hoãn nổ súng thêm 24 giờ đồng hồ. Lúc này quân đội Việt Nam phát hiện quân Pháp cũng đã hoàn thành việc tăng cường ồ ạt quân số và vũ khí cho Điện Biên Phủ, Pháp đã biến nơi đây thành một Tập đoàn cứ điểm vững mạnh với một hệ thống hầm hào kiên cố, vũ khí tối tân. Về phía quân đội Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận thấy có những khó khăn nhất định:

- Từ trước tới nay ta chỉ quen lối đánh du kích, đánh vào ban đêm, địa hình dễ ẩn náu;

- Lần đầu tiên có sự hiệp đồng tác chiến giữa bộ binh và pháo binh nhưng chưa qua diễn tập;

- Lực lượng của ta lúc đó mới chỉ có thể đánh được một tiểu đoàn của Pháp.

 Bởi vậy, ngày 26/01/1954, để thực hiện phương án tác chiến “đánh chắc tiến chắc”, bộ đội được lệnh kéo pháo quay ra. Kéo pháo vào trận địa đã khó khăn gian khổ, nhưng kéo pháo ra lại khó khăn gấp bội phần. Sau khi có lệnh kéo pháo quay ra, đêm ngày 01/02/1954, khẩu pháo phòng không 37mm của Khẩu đội 3, Trung đội 2, Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367 ra đến dốc Chuối (thuộc xã Nà Nhạn huyện Điện Biên ngày nay). Trời tối như bưng, lác đác có mưa phùn, hai bên đường, bộ đội rải những khúc gỗ có lân tinh nhưng ánh sáng chỉ lờ mờ, Trung đội trưởng Trung đội 2 Trần Quốc Chân mặc áo mưa lộn trái cho màu trắng ra ngoài làm dấu, đi trước dẫn đường. Đồng chí Tô Vĩnh Diện và pháo thủ  Nguyễn Văn Chi trực tiếp lái càng khẩu pháo đầu tiên xuống dốc. Pháo thủ Ước, Đài, người cầm gỗ chèn bánh pháo, người đánh mõ làm hiệu lệnh. Khi pháo vừa xuống được nửa dốc, đường kéo pháo bỗng lóe lên những ánh chớp xanh lẹt, đạn pháo quân Pháp rót tới nổ chát chúa, cành cây bị mảnh đạn phạt gẫy kêu răng rắc. Chỉ cần một ít người mất bình tĩnh, buông tay khỏi dây kéo pháo, khẩu pháo sẽ lao ngay xuống vực. Hàng quân kéo pháo đã có người bị thương, nhưng cả dòng người vẫn bám chắc dây kéo pháo, không ai rời vị trí. Lại một loạt đạn pháo nữa của quân Pháp dội xuống. Bỗng “phựt”! Dây tời chính đứt. Hai sợi dây hai bên với hàng trăm cánh tay đang bám chắc, vẫn không đủ sức giữ khối thép nặng trên hai tấn lao xuống dốc. Những tiếng thét “Ghìm lại! Ghìm lại!” vang lên xen với tiếng đạn nổ. Nhiều chiến sĩ ngã nhoài, đồng chí Chi bị càng pháo quật ngã xuống vực. Chỉ còn một mình đồng chí Tô Vĩnh Diện với chiếc càng pháo nặng đang quật lên, quật xuống như con voi dữ. Đêm tối, mưa trơn khẩu pháo bị đứt dây tời lao nhanh xuống dốc. Trước hoàn cảnh nguy hiểm đó, đồng chí Tô Vĩnh Diện đã hô anh em “thà hy sinh quyết bảo vệ pháo” và ngay lập tức đồng chí lao tới để cứu pháo, pháo bị vướng, nghiêng dựa vào sườn núi, nhờ đó, đơn vị kịp ghìm giữ pháo dừng lại, nhưng hàng tấn sắt thép ấy đã đè lên thân thể bé nhỏ của anh, đồng chí đã anh dũng hy sinh trong đêm tối 01/2/1954. Lúc đó là 2 giờ 30 phút sáng, đồng đội trong đơn vị đã nghiêng mình vĩnh biệt người khẩu đội trưởng 26 tuổi kiên cường, bất khuất lấy thân mình lao vào chèn bánh pháo. Lễ truy điệu của đồng chí Tô Vĩnh Diện được đồng đội tổ chức âm thầm trong một khu rừng vắng, không có nén nhang, cũng không có một tiếng súng tiễn biệt anh, bởi chiến dịch của quân đội Việt Nam chưa bắt đầu. Tấm gương hy sinh anh dũng của đồng chí đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần cho đồng đội quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ kéo pháo ra an toàn và tiếp tục xây dựng trận địa để thực hiện phương án “Đánh chắc tiến chắc”.

Đến rạng sáng ngày 04/02/1954, khẩu pháo cuối cùng được kéo về vị trí tập kết an toàn. Lúc đó là mồng 2 Tết Nguyên đán, Ban chỉ huy tiểu đoàn tổ chức cho bộ đội ăn Tết muộn trong rừng để chiến dịch được toàn thắng, các chiến sĩ pháo binh đã chuẩn bị sẵn sàng.

  Tấm gương hi sinh cứu pháo của đồng chí Tô Vĩnh Diện được toàn mặt trận học tập noi theo đưa pháo ra an toàn. Ngay tại mặt trận, đồng chí Tô Vĩnh Diện được truy tặng Huân chương chiến công hạng Nhất. Anh hùng liệt sỹ Tô Vĩnh Diện đã đi vào lịch sử như một huyền thoại - quên mình cứu pháo. Ca ngợi tấm gương chói sáng đã anh dũng hy sinh, trong bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, nhà thơ Tố Hữu đã viết:

“Những đồng chí chèn lưng cứu pháo

Nát thân, nhắm mắt, còn ôm”

Ngày 07/5/1956, đồng chí Tô Vĩnh Diện được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và trở thành người anh hùng Pháo cao xạ đầu tiên của quân đội ta ngã xuống trên mặt trận Điện Biên Phủ. Hiện nay, hài cốt của đồng chí được Đảng và Nhà nước quy tập và an táng tại nghĩa trang Đồi A1, thành phố Điện Biên Phủ./.


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:



Tin liên quan

     Bình luận


    Mã xác thực không đúng.
       Liên kết website
      Thống kê: 741.342
      Online: 99