Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 là đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Thắng lợi này đã thay đổi cục diện chiến tranh góp phần vào sự sụp đổ và tan rã của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới, kết thúc chiến tranh truờng kỳ của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ dù đã trải qua 66 năm (1954-2020) nhưng dư âm vẫn còn vang vọng mãi trong những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam và đi vào lịch sử thế giới như một mốc son chói lọi. Để có được chiến thắng vĩ đại đó quân và dân ta đã trải qua chín năm kháng chiến trường kỳ:
"Chín năm làm một Điện Biên,
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng"
Cách đây 66 năm về trước, chiến dịch Điện Biên Phủ bước vào đợt tấn công thứ hai, đây là đợt tấn công dài ngày nhất, kéo dài từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954.
Đến cuối tháng 3/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ đã diễn ra gần 17 ngày, quân đội Việt Nam đã dành được nhiều thắng lợi quan trọng trong nhiều trận đánh tại lòng chảo Điện Biên Phủ. Nếu như đợt tiến công đầu tiên quân đội Việt Nam mở cửa ở những vị trí vòng ngoài phía Bắc và Đông Bắc, cũng là thăm dò sức mạnh của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, từ đó có những phương án chiến đấu phù hợp. Thì trong đợt tấn công thứ hai lần này, quân đội Việt Nam đánh địch ở dãy cao điểm phía Đông, xây dựng trận địa tấn công, bao vây,chia cắt các cứ điểm của Pháp, khống chế đi đến triệt hẳn đường tiếp tế, tiếp viện của quân đội Pháp, chia cắt phân khu Trung tâm với phân khu Nam. Chỉ sau 10 ngày (18 - 27/3/1954), bộ đội trên toàn mặt trận tích cực đồng loạt đào được hơn 100 km giao thông hào trục chính chạy vòng quanh phân khu Trung tâm của tập đoàn cứ điểm và các đường hào tấn công chọc thẳng vào các vị trí tiền tiêu của quân Pháp. Chiếc thòng lọng thít quanh cổ quân Pháp đã chính thức hoàn thành.
Đúng 18 giờ ngày 30/3/1954, đợt tiến công thứ hai của quân đội Việt Nam đánh vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu. Lần này, quân đội Việt Nam không tiến đánh một vị trí đơn lẻ mà nổ súng tiến công trên toàn mặt trận. Trong đợt tấn công này, ngày 19/4/1954 Bộ Chính trị đã ra nghị quyết: "Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này". Sau khi kết thúc đợt tấn công lần thứ nhất và công tác đào hào, chuẩn bị trận địa đã hoàn thành, ngày 27/3/1954, các cán bộ từ trung đoàn trở lên lại quay về Sở Chỉ huy chiến dịch tại Mường Phăng để nhận nhiệm vụ tác chiến đợt hai. Nhiệm vụ đuợc trao đổi cho các đơn vị như sau:
– Đại đoàn 312, được phối hợp hai Đại đội sơn pháo 75 mm, hai Đại đội súng cối 120 mm, một Đại đội súng cối 82 mm, có nhiệm vụ tiêu diệt các cao điểm E, D1, D2 thuộc Trung tâm đề kháng Dominique, và dùng một đơn vị thọc sâu đánh vào vị trí pháo binh địch ở cao điểm 210, và Tiểu đoàn dù thuộc địa số 5 hoặc Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 của thực dân Pháp cơ động ở khu vực này.
– Đại đoàn 316 (thiếu một Trung đoàn), được phối hợp hai Đại đội sơn pháo 75mm, hai Đại đội súng cối 120mm, có nhiệm vụ tiêu diệt các cao điểm A1, C1, C2 thuộc Trung tâm đề kháng Eliane, và phối hợp với các đơn vị khác tiêu diệt lực lượng dù cơ động.
– Đại đoàn 308 có nhiệm vụ dùng hoả lực kiềm chế pháo binh của thực dân Pháp ở phía Tây Mường Thanh, dùng các đơn vị bộ đội nhỏ tích cực tấn công nghi binh vào các cứ điểm 106 và 311 nằm trong cụm Huguette ở phía Tây, cử một tiểu đoàn tham gia bộ phận thọc sâu vào tung thâm khu Đông để tiêu diệt Tiểu đoàn ngụy Thái số 2; phân công trận địa pháo binh của ta phối hợp với Trung đoàn 98 của Đại đoàn 316 tiêu diệt lực lượng dù cơ động của thực dân Pháp.
– Trung đoàn 57 của Đại đoàn 304, được phối hợp với Tiểu đoàn 888, Đại đoàn 316, một Đại đội lựu pháo 105mm, một Đại đội súng cối 120mm, 18 khẩu trọng liên cao xạ 12,7mm, có nhiệm vụ kiềm chế các trận địa pháo binh của Pháp ở Hồng Cúm, chặn quân tiếp viện từ Hồng Cúm lên Mường Thanh, đánh quân nhảy dù ở xung quanh và phía Nam Hồng Cúm.
– Đại đoàn 351 trực tiếp yểm hộ bộ binh tiến công vào các cứ điểm: A1, D1, C1, E, chế áp pháo binh của Pháp, tiêu diệt một lực lượng cơ động mạnh ở tung thâm phía Đông Mường Thanh, kiềm chế pháo binh của thực dân Pháp. Riêng Trung đoàn pháo cao xạ 367 yểm hộ đắc lực cho bộ binh và pháo binh chiến đấu cả ngày và đêm.
Đây là trận đánh công kiên có quy mô lớn nhất từ khi quân đội nhân dân Việt Nam thành lập cho đến thời điểm diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi mở đầu chiến dịch ta mới chỉ đánh từng trung tâm đề kháng, tiêu diệt từng tiểu đoàn đóng riêng lẻ, lần này quân đội Việt Nam đánh vào một khu vực gồm nhiều trung tâm đề kháng với nhiều tiểu đoàn đóng riêng lẻ, là một khu vực gồm nhiều trung tâm đề kháng với nhiều tiểu đoàn thiện chiến.
Đúng 18 giờ, ngày 30/3/1954, quân đội Việt Nam đồng loạt nổ súng tiến công các cao điểm phía Đông phân khu Trung tâm. Mở đầu trận đánh, pháo binh của quân đội Việt Nam dồn dập nã đạn vào Sở Chỉ huy của Đại tá De Castries cùng các điểm cao như C1, D1, E1, và khu vực quân cơ động của thực dân Pháp ở Mường Thanh và Hồng Cúm. Quân đội Pháp hoang mang, không kịp trở tay đối phó do bị bất ngờ.
Tại cao điểm C1(Eliane 1), quân đội Việt Nam lần đầu mở rào bằng đạn phóng bộc lôi. Bộc lôi nổ phá tung từng đoạn rào. Sau 5 phút, Tiểu đoàn 215 của Trung đoàn 98 đã dọn xong cửa mở qua bảy lần rào dây thép gai. Chớp thời cơ hỏa lực của Pháp đang còn tê liệt, Tiểu đoàn trưởng Bùi Hữu Quán hạ lệnh xung phong. Đường dây điện thoại với trung đoàn bị đứt. Nghe tiếng súng bộ binh nổ trên cứ điểm, trung đoàn ra lệnh cho pháo chuyển làn. Chỉ trong10 phút, Đại đội 38 đã chiếm được chiếc lô cốt nằm trên mỏm đất cao nhất, nhô lên trên đỉnh đồi, được gọi là mỏm Cột Cờ. Tiểu đội trưởng mũi nhọn Nguyễn Thiện Cải cắm lá cờ "Quyết chiến Quyết thắng" lên nóc sở chỉ huy. Quân Pháp dồn về những lô cốt ở khu vực phía Tây, gọi pháo bắn vào trận địa. Các chiến sĩ xung kích dùng lưỡi lê, lựu đạn lao lên đánh giáp lá cà. Trận đánh diễn ra trong vòng 45 phút, toàn bộ Đại đội140 lính, thuộc Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 4 Ma rốc bị bộ đội Việt Nam tiêu diệt và bắt sống. Quân đội Việt Nam chỉ bị thương vong 10 người. Quân Pháp thất thủ ở C1, địch rút sang C2 sử dụng hỏa lực ở đây bắn lên C1 để chiếm lại, gây nhiều thương vong cho bộ đội Việt Nam.
Tại cao điểm C2 (Eliane 4) khá rộng nối với C1 bằng một dải yên ngựa, sườn đồi phía trong thoai thoải, đổ xuống đường 41 (nay là đường 7/5), rất tiện cho quân Pháp cơ động lên phản kích. Bố phòng của địch trên đồi là hệ thống chiến hào liên hoàn với nhiều lô cốt, ụ súng khá kiên cố; phía ngoài là nhiều lớp hàng rào dây thép gai và bãi mìn dày đặc. Lực lượng trấn giữ Elian 4 là Tiểu đoàn dù thuộc địa số 5 và Trung đoàn Ma Rốc số 4. Toàn bộ pháo địch gồm 20 khẩu 105mm ở Mường Thanh và Hồng Cúm đồng loạt bắn lên C1. Về phía quân đội Việt Nam, chịu trách nhiệm đánh cứ điểm này là Trung đoàn 98, Đại đoàn 316 dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Vũ Lăng. Đúng 23 giờ, một Trung đội của Đại đội 35, do Đại đội phó và Chính trị viên chỉ huy, vượt qua yên ngựa đột nhập được một đoạn hào của C2, trung đội nhanh chóng phát triển đánh chiếm liên tiếp 11 lô cốt và ụ súng. Nhưng lực lượng phía sau qua nhiều lần xung phong đều bị hỏa lực mạnh của quân Pháp cản lại. Tiểu đoàn 215 quyết định lui về C1 tiếp tục chuẩn bị tạo điều kiện tiến công C2. Đến rạng sáng ngày 07/5, chỉ huy cứ điểm tung lực lượng cơ động ra phản kích nhằm tạo đòn bất ngờ đánh bật Trung đoàn 98 ra khỏi cứ điểm. Được sự hỗ trợ của Trung đoàn 174 bên phía A1, Trung đoàn 98 đã đập tan cuộc phản kích của địch. Lựu pháo của quân đội ta cũng dồn dập bắn chi viện hơn 200 quả. Trung đoàn 98 đã chia làm 3 mũi tấn công ào ạt xung phong lên C2. Trước sức mạnh tấn công như vũ bão của quân đội nhân dân Việt Nam, cứ điểm C2 đã bị thất thủ, hơn 600 tên lính của quân đội Pháp kéo nhau ra hàng. Chiếm được C2, toàn bộ dãy cao điểm phía Đông đã nằm dưới sự khống chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tại cao điểm D1 (Dominique 2), đánh chiếm dãy cao điểm phía Đông trong đó có cao điểm D1 là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong đợt tấn công thứ hai. Đơn vị đảm nhiệm tiêu diệt cứ điểm D1 là Tiểu đoàn 130, 166, 154 thuộc Trung đoàn 209, Đại đoàn 312.
Đúng 17 giờ ngày 30/3/1954, thời gian mở cửa đột phá diễn ra nhanh. Chỉ sau 5 phút, ở hướng chính Tiểu đoàn 166 đã phá xong ba lượt hàng rào dây thép gai và tiến vào căn cứ địch. Quân đội Việt Nam nhanh chóng thọc sâu, chia cắt đội hình quân Pháp ra từng mảng để tiêu diệt. Đồng chí Trần Can vừa được đề bạt làm Trung đội trưởng, một lần nữa lại xung phong lên cùng với Tiểu đội đi đầu chiếm từng ụ súng, từng góc chiến hào. Tuy nhiên, ở hướng phụ giao thông hào đã bị quân Pháp lấp mất 50 mét, Tiểu đoàn 154 tiến vào gặp lầy, mở cửa chậm bị hỏa lực trong đồn khống chế phải mất gần một giờ mới lọt vào trong đồn. Viên Đại úy Jean Garandeau, chỉ huy Tiểu đoàn 3 Angiêri của Pháp bị pháo vùi chết trong hầm của Sở Chỉ huy. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, sau hai giờ chiến đấu, quân đội ta hòan toàn làm chủ 3 ngọn đồi D1, D2, D3.
Tại cao điểm E (Dominique 1), pháo nổ đúng lúc diễn ra cuộc thay quân của quân đội Pháp giữa một đại đội của Tiểu đoàn 3 Angiêri với đại đội của Tiểu đoàn dù 5 tới thay thế theo lệnh của Trung tá Pierre Langlais, Chỉ huy trưởng Binh đoàn đổ bộ đường không số 2 của Pháp. Binh lính Pháp với đầy đủ trang bị đang tập trung dọc giao thông hào không có hầm trú ẩn chạy xô vào nhau. Đại đội súng cối hạng nặng của quân Pháp nằm giữa vị trí chưa kịp bắn loạt đạn nào đã bị pháo của quân đội Việt Nam tiêu diệt. Hai mũi tiến công của bộ đội thuộc Tiểu đoàn 16 và Tiểu đoàn 428 , Trung đoàn 141 mở cửa qua hàng rào dây kẽm gai và bãi mìn. Sau một giờ xung phong áp đảo, bộ đội chiếm toàn bộ cứ điểm. Vào lúc 19 giờ 45 phút, Trung đoàn trưởng Quang Tuyến báo cáo hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt đồi E. Đại đoàn tiếp tục điều Tiểu đoàn 130 tiến công sang D2, các đơn vị vừa chiếm được đồi E phát triển vào các ngọn đồi ở phía trong. Cuộc chiến đấu kéo dài cho đến khi trời sáng.
Tại đồi A1(Eliane 2), Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương tập trung tuyệt đối ưu thế binh, hỏa lực tiêu diệt toàn bộ khu Đông Mường Thanh. Trung đoàn 174 thuộc Đại đoàn 316 nhận nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm A1. Lực lượng trong biên chế của trung đoàn gồm 3 tiểu đoàn bộ binh và các đại đội trực thuộc trung đoàn. Lực lượng được tăng cường gồm: 1 Đại đội súng cối 120mm (4 khẩu), 1 Trung đội cối 82mm (4 khẩu), 1 Đại đội sơn pháo 75mm (3 khẩu) và được 1 Đại đội lựu pháo l05mm chi viện. Nếu tính cả DKZ 57mm trở lên thì có 36 khẩu pháo các loại. Ngày 17-3, Trung đoàn dồn sức xây dựng một hệ thống trận địa tiến công và bao vây quanh tập đoàn cứ điểm. Hệ thống này gồm các đường hào trục, đường hào nhánh để vận chuyển và cơ động lực lượng, hệ thống trận địa tiến công của các trung đoàn và rất nhiều hầm trú ẩn, hầm chỉ huy. Nhiệm vụ của Trung đoàn 174 xác định: Tiểu đoàn 9 làm hướng điểm, lấy Đại đội 317 làm đại đội chủ công có nhiệm vụ đột phá theo hướng Đông vào lô cốt số 1 đánh chiếm khu A, B, C và sau khi cùng Tiểu đoàn 1 tiêu diệt A1, sẽ dùng một bộ phận đột phá vào Đông Nam C2 phối hợp với Trung đoàn 98 tiêu diệt C2, nếu không có điều kiện thì dùng hỏa lực bố trí ở A1 khống chế C2 yểm hộ cho Trung đoàn 98 Đại đoàn 316 đột phá; Tiểu đoàn 1 thiếu 1 đại đội làm hướng diện có nhiệm vụ đột phá theo hướng Đông Nam vào lô cốt số 4, đánh chiếm khu D phối hợp với Tiểu đoàn 9 tiêu diệt toàn bộ quân địch. Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An chủ động ra lệnh cho hỏa lực của trung đoàn bắn vào cứ điểm yểm hộ cho xung kích mở cửa. Một nửa giờ đã trôi qua, lúc này pháo binh Pháp đã hồi sức, bắn dữ dội vào cửa mở. Các lô cốt, ụ súng ở tiền duyên dồn đạn về phía các chiến sĩ bộc phá để đưa những ống thuốc nổ phá hàng rào. Phải mất hơn nửa giờ, hai mũi tiến công của các Tiểu đoàn 251 và 249 của quân ta mới vượt qua 100 mét rào và bãi mìn lọt vào đồn. Quân Pháp đã dựa vào địa thế tự nhiên của quả đồi, bố trí công trình phòng thủ thành ba tuyến.
Phòng tuyến 1: Nằm sát chân đồi làn tuyến phòng ngự chủ yếu phía ngoài bố trí các phân đội bộ binh, lính dù.
Phòng tuyến 2: ở lưng chừng đồi là tuyến giữa có nhiệm vụ ngăn chặn.địch bố trí nhiều hỏa lực khá mạnh như súng cối ,DKZ, trọng liên.
Phòng tuyến 3: trên đỉnh đồi là tuyến cố thủ có cơ quan chỉ huy cứ điểm và hầm cố thủ kiên cố
Tại các cứ điểm có nhiều tuyến, chiến hào và giao thông hào liên hoàn. Tất cả các lô cốt và hầm trú ẩn đều có nắp đậy, chịu được đạn súng cối và pháo. Lực lượng của quân đội Việt Nam đã phải chịu tổn thất nhiều để vượt qua cửa mở.Lúc này cuộc chiến đấu trên những cao điểm khác đã kết thúc, quân Pháp dồn tất cả hỏa lực đại bác và súng cối vào A1 mong cứu vãn tình hình. Các đợt xung phong của Tiểu đoàn 255 cũng không thể vượt qua hàng rào lửa đại bác. Đêm ngày 30/3, cuộc chiến đấu tại A1 vẫn diễn ra giằng co quyết liệt, mỗi bên giữ được nửa đồi.
Sở Chỉ huy quân ta nhận định: Bộ đội đã hoàn thành phần quan trọng nhiệm vụ đợt 2, nhưng vẫn chưa chiếm được cao điểm phòng ngự then chốt A1. Trung đoàn 174 do Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An chỉ huy đã sử dụng cả lực lượng dự bị, không còn khả năng giải quyết A1; Trung đoàn 98 đánh xuống C2 không thành công đã bị tiêu hao, cần điều một đơn vị khác tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt A1 và phòng ngự ở C1 ban ngày. Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định: Các đơn vị khẩn trương tổ chức trận địa phòng ngự trên các cao điểm C1, D1, E, chuẩn bị đánh địch phản kích ban ngày, quyết không để địch chiếm lại. Đại đoàn 308 đưa Trung đoàn 102 từ phía Tây sang phía Đông, tiếp tục tiến công tiêu diệt A1 và phòng ngự tại C1. Một mặt quân Pháp dựa vào hầm ngầm, lô cốt để cố thủ và đưa quân từ các điểm khác dùng xe tăng và lính dù, lính lê dương phản kích dữ dội. Trận chiến đấu trên đồi A1 diễn ra vô cùng căng thẳng, khốc liệt và thiệt hại cho cả hai phía, giằng co, kéo dài đến tận chiều ngày 3/4/1954 thì tạm ngừng. Hai bên cố gắng củng cố và giữ vững phần đồi đã chiếm được.
Ngày 6/4/1954, dưới sự chỉ huy của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Bộ Chỉ huy chiến dịch tổ chức họp sơ kết đánh giá đợt tiến công thứ hai. Hội nghị nhận định: Sau năm ngày chiến đấu, ở phía Đông ta đã chiếm được bốn ngọn đồi hiểm yếu, làm chủ một phần cao điểm then chốt A1, địch đã phải kéo pháo chạy khỏi cứ điểm 210; ở phía Tây ta chiếm thêm được các cứ điểm 106, 311. Phạm vi chiếm đóng của địch thu hẹp khá nhiều, lực lượng của chúng cũng bị tổn thất lớn. Nhưng ta chưa hoàn thành tất cả những mục tiêu đề ra, đặc biệt là chưa chiếm được hoàn toàn A1. Đây lại chính là một mục tiêu trọng yếu của đợt tiến công này.
Những ngày sau đó, tại những vị trí quân ta chưa dứt điểm được vẫn tiếp tục diễn ra những cuộc chiến đấu giằng co, quyết liệt. Quân Pháp mở nhiều đợt tấn công phản kích nhằm giành lại một số vị trí đã mất, nhưng cơ bản đều bị quân ta đánh lui rút về hầm cố thủ. Từ sau đợt tiến công khu Đông, ta dự kiến thế nào quân Pháp cũng phản ứng quyết liệt. Bộ Chỉ huy chiến dịch nhận định mỗi khi chiếm được một vị trí, quân ta cần phải có hỏa lực đủ mạnh để đập tan những đợt phản kích của quân Pháp. Trên có sở đó, có 5 Đại đội lựu pháo và toàn bộ hỏa lực súng cối của hai Đại đoàn 308, 312 đã được tổ chức thành lực lượng hỏa lực thống nhất dưới sự chỉ huy chung. Bộ Chỉ huy gồm các đồng chí Vương Thừa Vũ, Đại đoàn 308; đồng chí Đàm Quang Trung, Đại đoàn 312; đồng chí Nguyễn Thước, Đại đoàn 351 đặt tại Sở Chỉ huy của Đại đoàn 308. Các đại đội pháo đã tính toán sẵn phần tử bắn ở các ngã ba, cầu, đường khu vực tập kết của quân Pháp và cùng bộ binh xây dựng kế hoạch tác chiến.
Trận đánh cuối cùng của đợt tiến công thứ 2 là trận quân đội Việt Nam tiêu diệt cứ điểm Huguettevào đêm 22/4/1954, đây là trung tâm đề kháng khá mạnh nhằm bảo vệ sân bay Mường Thanh. Trận này, quân đội Việt Nam áp dụng thành công chiến thuật "đánh dúi", đào chiến hào, bí mật áp sát vào tận sâu trong đồn địch đến quân Pháp có cảm giác bộ đội ta như "từ dưới đất chui lên" ngay giữa đồn địch. Trong vòng một giờ, bộ đội đã làm chủ hoàn toàn Huguette 1. Phần lớn, 177 lính Lê dương bảo vệ vị trí bị bắt sống. Đến 22 giờ đêm, quân đội Việt Nam chiếm được đồn, vậy mà đến tận sáng, Sở Chỉ huy của De Castries ở Mường Thanh vẫn chưa hề biết tin, mãi đến 7 giờ 30 ngày 23/4, khi một số tên lính Pháp thoát chết chạy về đây báo tin thì Sở Chỉ huy của Pháp mới biết.Trong thời gian mở đợt tấn công thứ hai, quân đội Việt Nam vừa dùng lực lượng nhỏ vây ép đánh lấn dưới mặt đất, vừa bắn máy bay, triệt nguồn tiếp tế, tiếp viện của quân Pháp. Bộ đội cao xạ cùng với các đơn vị súng máy phòng không của các đại đoàn bộ binh tạo thành một lưới lửa khống chế bầu trời Điện Biên Phủ trong tầm cao từ 3 km trở xuống. Máy bay quân Pháp phải thả dù từ độ cao trên 3 km, nên một phần ba số dù đã rơi vào khu vực trận địa của quân đội Việt Nam; trong đó có khá nhiều đạn dược các loại cùng nhiều lương thực, thực phẩm, thuốc men, trở thành nguồn cung cấp khá quan trọng cho quân đội Việt Nam. Quân và dân Việt Nam ngày càng thêm phấn chấn, tích cực khắc phục khó khăn về tiếp tế, nâng cao quyết tâm giành thắng lợi; ra sức củng cố và giữ vững những vị trí đã chiếm được. Khoảng 3 giờ sáng ngày 07/5/1954, Đại đội 315 đã tiêu diệt ổ đề kháng cuối cùng , bắt toàn bộ lực luợng còn lại của Tiểu đòan dù thuộc địa số 1, trong đó có viên Đại úy Pugiê Chỉ huy cứ điểm và 34 lính dù.
Trận chiến đấu tại cứ điểm A1 kết thúc lúc 4 giờ 30 phút ngày 07/5/1954. Trải qua 39 ngày đêm ta đã loại 4 tiểu đoàn, đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn cơ động của địch, tiêu diệt 825 tên địch.
A1 - Là cuống họng của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã bị quân đội ta tiêu diệt hoàn toàn.
Kết thúc đợt tấn công thứ hai, quân đội Việt Nam đã giải phóng được các dãy cao điểm phía Đông, tiêu diệt được nhiều vị trí quan trọng tại phân khu Trung tâm, phân khu Nam, xóa sổ sân bay Mường Thanh, cắt đứt con đường tiếp tế duy nhất của chúng và làm tiêu hao nhiều sinh lực địch, tạo bàn đạp cho quân đội Việt Nam tấn công sang hầm De Castries bắt sống y cùng toàn bộ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ./.