Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nền kinh tế kháng chiến của nước ta còn non trẻ, chịu nhiều tổn thất do chiến tranh tàn phá và sự phong tỏa của kẻ thù. Công tác quân nhu, quân lương hầu như chưa được đảm bảo đầy đủ. Trang phục của bộ đội chủ yếu do từng cá nhân tự trang bị, sau này mới có thêm sự hỗ trợ từ sự đóng góp của Nhân dân. Vì vậy, hình ảnh người chiến sĩ thời kỳ ấy giản dị, mộc mạc, áo quần giống như người dân thường.

Năm 1946, ở miền Bắc, trước âm mưu của thực dân Pháp, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: nếu muốn giành thắng lợi thì chúng ta phải kháng chiến lâu dài. Muốn vậy, phải bảo toàn và phát triển lực lượng kháng chiến, đồng thời phải xây dựng được những khu căn cứ vững chắc, an toàn. Khu căn cứ kháng chiến quan trọng nhất được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn là Việt Bắc.

Trong điều kiện đóng quân nơi rừng núi, quanh năm mưa rét, sương giăng và nắng gắt thì chiếc mũ trở thành vật dụng vô cùng cần thiết đối với mỗi người chiến sĩ. Thời gian đầu lên Việt Bắc, mũ đội đầu của bộ đội rất đa dạng, gồm mũ ca-lô, mũ nồi, mũ phớt, mũ lá, thậm chí cả mũ sắt và mũ nhựa thu được của địch. Các loại mũ bằng vải như ca-lô, nồi, phớt tuy gọn nhẹ và tiện dụng trong mùa Đông nhưng lại không thích hợp khi gặp mưa rừng xối xả. Mũ sắt thì vừa nặng vừa nóng, còn mũ nhựa tuy nhẹ hơn nhưng cũng không thể chống chịu được cái nắng gay gắt nơi núi rừng mùa Hạ.

Nhiều chiến sĩ quê ở Phú Thọ khi gia nhập quân đội đã mang theo chiếc mũ lá cọ rộng vành, loại mũ tuy nhẹ nhưng khá cồng kềnh, không thuận tiện khi hành quân. Trong điều kiện thiếu thốn trăm bề, quân nhu chưa thể trang bị đầy đủ, bộ đội phải tự tìm cách làm ra loại mũ vừa che nắng, vừa chống mưa, lại không tốn tiền mua.

Xuất thân từ những làng quê, nơi có truyền thống đan lát rổ rá, nhiều chiến sĩ đã nảy ra ý tưởng lấy tre để đan mũ. Nơi đóng quân của bộ đội phần lớn là rừng núi, nguồn nguyên liệu từ rừng phong phú với tre, nứa, giang, trúc, mai, vầu… Tuy nhiên, không phải loại nào cũng phù hợp để đan mũ: nứa giòn, dễ gãy, chỉ có tre và giang là thích hợp nhất. Khi đan phải chọn loại tre, giang bánh tẻ, sau đó lột bỏ lõi, chỉ lấy phần cật chẻ thành nan nhỏ để đan khung mũ, rồi vót nan ken kín quanh.

Khi đan xong, mũ được đưa lên hun khói trên gác bếp. Lớp khói và bồ hóng từ củi lửa khiến nan tre ngả màu vàng óng như cánh gián, đồng thời giúp mũ bền hơn, chống ẩm mốc và mối mọt.

Mũ nan được đan thành hai loại chính, phù hợp với từng điều kiện thời tiết khác nhau. Vào mùa nắng, bộ đội thường dùng loại mũ đan ô thưa, không cần có cốt mũ, chỉ việc gài thêm lá cây lên trên vừa giúp ngụy trang, vừa tạo cảm giác thoáng mát khi đội.

Khi mùa mưa đến, mũ được đan kín nan hơn, bên trong phủ thêm lớp lá cọ hoặc mo tre làm cốt mũ để tránh nước mưa thấm xuống. Nếu dùng mo tre hay lá cọ, người làm phải khâu cố định bằng chỉ, tương tự như cách khâu nón lá. Phần bọc ngoài mũ dùng chỉ gai đan thành lưới ô quả trám như lưới đánh cá để gài lá ngụy trang.

Ngoài ra, ở một số đơn vị, sau khi thu được dù của lính Pháp, bộ đội đã tận dụng dây dù để đan thành lưới, còn vải dù hoa thì cắt nhỏ, thắt vào mắt lưới để ngụy trang. Nếu ai có được mảnh dù hoa lớn đủ để bọc kín mũ thì không cần đan lưới mũ bên ngoài. Từ khoảng năm 1949 trở đi, hầu hết các đơn vị bộ đội đều đã trang bị mũ nan, loại mũ vừa che nắng, che mưa, lại nhẹ, tiện dụng, dễ làm, dễ sửa chữa khi hư hỏng.

Cho đến năm 1953 - 1954, bộ đội và dân công tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ hầu hết sử dụng mũ nan tự đan. Tuy giống nhau về chất liệu nhưng hình dáng, kích cỡ của mũ còn tùy vào thiết kế phù hợp với từng người và nhiệm vụ của mỗi đơn vị. Có loại mũ vành rộng, vành cúp; một số được bọc thêm vải hoặc lưới dù ngụy trang và có cũng có những chiếc được bọc bằng vải dù hoa thu được của quân Pháp.

Nếu xét về công năng bảo vệ người lính trước bom đạn, chiếc mũ nan “tự chế” của bộ đội Việt Nam không thể so sánh được với các loại mũ sắt trang bị cho quân Pháp. Thế nhưng, chính những người lính với quân trang đơn sơ ấy đã chiến thắng một quân đội có trang bị tối tân để làm nên chiến thắng “Lững lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Trong quân trang của người lính, chiếc mũ nan đã trở thành một trong những biểu tượng của “Bộ đội Cụ Hồ”, giản dị, kiên cường, sáng tạo và giàu ý chí độc lập, tự lực, tự cường trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954).

Trong bài thơ “Việt Bắc” của Nhà thơ Tố Hữu, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” được thể hiện rất sinh động với khí thế hào hùng, tràn đầy lạc quan cách mạng và tinh thần tự lực tự cường:

“Những đường Việt Bắc của ta

Ngày đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan…”

Chính bởi giá trị lịch sử và biểu trưng ấy, Kiến trúc sư Nguyễn Tiến Thuận đã chọn hình sáng chiếc mũ nan làm ý tưởng thiết kế cho công trình Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ.

Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ được thiết kế hiện đại, kết hợp hài hòa giữa giá trị lịch sử, nghệ thuật. Nhìn từ trên cao, toàn bộ công trình mang dáng hình một chiếc mũ nan, mặt ngoài được trang trí bằng các hoạ tiết hình quả trám, gợi nhớ tới tấm lưới nguỵ trang trên mũ của người lính bộ đội Cụ Hồ. Hệ thống hành lang, lối đi được thiết kế giống như hệ thống giao thông hào trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ có hai tầng chính. Tầng trệt là nơi đón tiếp khách tham quan, không gian trưng bày triển lãm, phòng chiếu phim tư liệu “Chiến dich Điện Biên Phủ 56 ngày đêm” kết hợp với sa bàn 3D mapping, khu trải nghiệm Game tương tác ảo AR, VR, khu dịch vụ.

Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ

Tầng nổi là không gian trưng bày chính, giới thiệu hơn 1.000 tài liệu, hiện vật, hình ảnh gắn liền với Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1953 - 1954. Nổi bật trong không gian này là bức tranh toàn cảnh Panorama “Chiến dịch Điện Biên Phủ”, công trình nghệ thuật quy mô lớn tái hiện sống động những khoảnh khắc tiêu biểu, điển hình của chiến dịch.

Với kiến trúc độc đáo, nội dung trưng bày phong phú và không gian trải nghiệm hiện đại, Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là một điểm du lịch hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách trong nước và quốc tế mà còn là địa chỉ đỏ trong công tác giáo dục truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc cho các thế hệ hôm nay và mai sau.


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:



Tin liên quan

     Bình luận


    Mã xác thực không đúng.
       Liên kết website
      Thống kê: 789.618
      Online: 54