Cách đây 110 năm, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành với ý chí mãnh liệt, lòng yêu thương dân tộc sâu sắc đã ra đi tìm đường cứu nước với một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đây là tất cả những điều tôi hiểu”.

Vào giữa thế kỷ thứ XIX, đế quốc Pháp nổ súng đánh chiếm nước ta, giữa lúc chế độ phong kiến Việt Nam đang trên đà suy tàn, mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến trở nên gay gắt. Trước hành động xâm lược của đế quốc Pháp, chế độ phong kiến triều đình nhà Nguyễn đã chọn con đường quỳ gối đầu hàng, dâng nước ta cho Pháp. Mặc dù vậy, ngay từ khi đế quốc Pháp xâm lược nước ta, các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta với truyền thống kiên cường bất khuất đã liên tiếp nổ ra khắp Bắc, Trung, Nam. Cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng của nhân dân ta đã gây cho bọn xâm lược rất nhiều khó khăn, thiệt hại. Phải mất 1/3 thế kỷ, đế quốc Pháp mới đặt được ách thống trị lên đất nước ta. Tuy nhiên, các cuộc kháng chiến anh dũng đó đều không thành công, đều bị dập tắt trong máu lửa.

Năm 1885, phong trào Cần Vương dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước phát triển rầm rộ, nhưng cũng chỉ kéo dài được đến năm 1896. Tuy các sĩ phu giàu lòng yêu nước, nhưng không có khả năng vạch ra được giải pháp mới phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và xu thế phát triển của thời đại. Đến cuối thế kỷ thứ XIX, các phong trào yêu nước chống Pháp đều bị thất bại

Sự thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam nổ ra từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã làm cho cách mạng Việt Nam khủng hoảng về con đường giải phóng dân tộc. Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận thấy con đường do những người đi trước mở ra sẽ không giải phóng được dân tộc. Việc không lặp lại thất bại của những người đi trước là một điều khó khăn nhưng tìm ra một con đường mới phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử để dân tộc giành được độc lập, tự do là một điều còn khó khăn hơn nhiều lần.

Ngày 02/3/1911, Nguyễn Tất Thành ra bến Nhà Rồng xin việc. Ngày 03/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên mới là Văn Ba, được thuyền trưởng tàu Amiran Latouche Tréville của hãng Chargeurs Réunis nhận làm phụ  bếp trên tàu.

Bến Nhà Rồng (Ảnh: TTXVN)

Con tàu Amiral Latouche Tréville đưa người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái quốc ra đi tìm đường cứu nước (Ảnh: tư liệu)

Ngày 5/6/1911, trên con tàu Amiral Latouche Tréville, từ cảng Sài Gòn đi Marseille, Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành trình 30 năm tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Vào thời điểm đó, không ai biết rằng vận mệnh của dân tộc Việt Nam đã gắn liền với quyết định ra đi của một con người mà lịch sử đã chứng tỏ là sáng suốt, phi thường ấy.

Mặc dù rất kính mến, trân trọng thế hệ cha anh, nhưng Nguyễn Tất Thành đã không thể đi theo con đường của họ. Người muốn đi tìm một con đường cứu nước mới. Chính vì vậy, Người đã đến châu Âu - nơi đang có sự phát triển vượt bậc về kinh tế, văn hóa, chính trị để tìm hiểu truyền thống tự do, bình đẳng, bác ái… tìm hiểu nơi đã sinh ra mọi chế độ thực dân thối nát, cực kỳ tàn bạo; đặc biệt là đến Pháp - quốc gia đang trực tiếp cai trị đất nước mình.

Từ đây Nguyễn Tất Thành đã bước vào con đường lao động đầy vất vả với bao công việc khó khăn, nặng nhọc để kiếm sống và học tập, để thâm nhập vào phong trào công nhân và lao động các nước, từ tàu buôn Pháp, qua tàu buôn Mỹ, cạo tuyết thuê cho một trường học rồi phục vụ trong một khách sạn ở Anh.

Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp. Bắt đầu từ đây, Người có nhiều cuộc tiếp xúc với các nhà văn hóa, trí thức, tham gia các cuộc sinh hoạt chính trị sôi nổi. Tháng 11/1917, Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại thắng lợi, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử xã hội loài người.

Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919, thay mặt “Hội những người Việt Nam yêu nước” tại Pháp, Nguyễn Tất Thành gửi đến Hội nghị Vécxây Bản yêu sách của nhân dân An Nam đòi Chính phủ Pháp thừa nhận quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Dưới Bản yêu sách Nguyễn Tất Thành ký tên: Nguyễn Ái Quốc. Đây là lần đầu tiên danh xưng Nguyễn Ái Quốc xuất hiện.

Trong 2  ngày 16 và 17/7/1920 trên báo Nhân đạo đăng “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin (được gọi tắt là Sơ thảo luận cương). Với tiêu đề chạy suốt cả trang báo đã ngay lập tức thu hút sự chú ý của Nguyễn Ái Quốc. Tên bài báo có liên quan đến vấn đề thuộc địa - một vấn đề mà Người đang theo đuổi tìm kiếm. Đọc Sơ thảo luận cương của Lênin là sự kiện mang tính chất bước ngoặt đối với Nguyễn Ái Quốc. Người đã khẳng định: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Sau nhiều năm tìm tòi cuối cùng Nguyễn Ái Quốc cũng tìm ra được “cẩm nang” để giải phóng dân tộc.Từ chủ nghĩa yêu nước, Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến cuộc gặp gỡ kỳ thú đó. Chính nhờ thắng lợi của cách mạng Nga rồi đọc Luận cương của V.I. Lênin mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ánh sáng cho con đường giải phóng dân tộc mình trong sự nghiệp giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức.

Ngày 30/12/1920, tại Đại hội Tours của Đảng Xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế 3 đánh dấu bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời mở ra bước chuyển cho bao thế hệ người Việt Nam: từ người yêu nước thành người cộng sản.

Lãnh tụ Nguyễn Ái quốc dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở Tour, năm 1920 (Ảnh tư liệu)

Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp; năm 1922 xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp. Năm 1923, Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham gia Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là Ủy viên Thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam. Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức châu Á; xuất bản cuốn sách nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp...

Sau gần 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến nhiều châu lục, tiến hành khảo sát chủ nghĩa thực dân, đế quốc ở các nước tư bản chủ yếu và nhiều nước thuộc địa của chúng. Sớm nhận thức được xu hướng phát triển của thời đại, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân các nước thuộc địa. Người nói: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

Để chuẩn bị cho việc thành lập Đảng của những người cộng sản Việt Nam, năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức Cộng sản Đoàn làm nòng cốt, đào tạo cán bộ cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Năm 1929, nhiều tổ chức cộng sản đã ra đời ở Việt Nam: Đông Dương Cộng sản Đảng; An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Ngày 03/02/1930, dưới sự chủ trì của Người tại Hương Cảng, Trung Quốc, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cơ sở Đảng đã nhất trí thành lập một Đảng thống nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là sản phẩm của sự kết hợp của Chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là bước ngoặt vĩ đại trong Cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về con đường cứu nước, cứu dân.

Từ năm 1930 - 1940, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tiếp tục hoạt động cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam và các dân tộc bị áp bức khác trong điều kiện vô cùng khó khăn, gian khổ.

Sau 30 năm bôn ba, ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Từ đây dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dân Việt Nam đã tiến hành hai cuộc kháng chiến thần thánh đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giải phòng và thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Dù đã đi xa, nhưng người chiến sỹ cộng sản kiên trung và dũng cảm Nguyễn Ái Quốc đã để lại cho dân tộc Việt Nam một đường lối mẫu mực trong việc nhanh nhạy với tình hình thời cuộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện nước ta hiện nay.

Kỷ niệm 110 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911-5/6/2021), chúng ta luôn ghi nhớ đây là mốc son vàng của lịch sử dân tộc. Nhớ về Người, mỗi công chức, viên chức người lao động của Sở Văn hóa,Thể thao và Du lịch nói chung và Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ nói riêng quyết tâm phấn đấu đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Đồng thời, ra sức đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu: “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng ta đang phấn đấu.


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:



Tin liên quan

     Bình luận


    Mã xác thực không đúng.
       Liên kết website
      Thống kê: 698.143
      Online: 36