Trong chiến đấu ác liệt, dài ngày tại Điện Biên Phủ, số thương binh nhiều và tình trạng vết thương phức tạp hơn so với các chiến dịch trước. Số lượng thương binh nặng nhiều hơn. Phần lớn vết thương do mảnh đạn đại bác địch bắn phải. Trời mưa lầy lội nên đa số vết thương dính bùn và bị nhiễm trùng. Hậu cần chiến dịch chủ trương: các tuyến quân y phải tiếp cận trận địa, bám sát bộ đội chiến đấu để việc cứu chữa thương binh được kịp thời, rút ngắn được quãng đường và thời gian vận chuyển thương binh sau khi được cấp cứu bước đầu rồi đưa về các bệnh viện mặt trận (đội điều trị chiến dịch).

Tổ chức cứu chữa nhanh, tốt còn giảm bớt sự đau đớn cho thương binh, tránh được hoặc hạn chế đến mức thấp nhất số lượng thương binh bị tàn phế, tử vong. Tuy nhiên thực hiện chủ trương tiếp cận trận địa, đi sát bộ đội chiến đấu thì phải di chuyển cơ sở điều trị lên phía trước và đưa phòng mổ ra gần hỏa tuyến. Đối với vấn đề này, các cán bộ, chiến sĩ ngành quân y đều bỡ ngỡ. Các đội điều trị đã thảo luận, bàn bạc trong các cấp ủy đảng, trong cán bộ phụ trách, trong chi bộ và tiếp theo là trong toàn đội. Trước hết phải đấu tranh khắc phục tư tưởng sợ khó, sợ khổ, ngại hy sinh trước hoàn cảnh địch bắn phá ác liệt, phải nâng cao lòng yêu thương giai cấp, yêu thương đồng chí, quyết tâm cứu chữa thương binh với tinh thần dũng cảm, tận tụy, quên mình.

Cơ quan quân y chiến dịch chỉ đạo một đội điều trị, một phòng mổ để rút kinh nghiệm. Lúc đầu, các đồng chí quân y cùng với công binh đào moi vào ruột núi, đất sụt phải dùng gỗ chống. Sau đào những hầm lộ thiên dùng cây to lát trần, lấp đất dày có thể chống được sức phá hoại của các loại đạn đại bác và bom của quân Pháp nổ gần. Lòng hầm đủ để triển khai một bàn mổ, chỗ để các tiện nghi cần thiết, một số thầy thuốc và nhân viên quân y có thể đi lại làm việc. Nền hầm cao ráo, sạch sẽ. Trần hầm và vách hầm được căng vải dù trắng. Cửa hầm có rèm vải xô ngăn ruồi muỗi, bụi bặm. Để có ánh sáng cho việc phẫu thuật, các chiến sỹ quân y có sáng kiến dùng đèn đi-na-mô xe đạp thay cho đèn măng sông hoặc đèn điện mà trong hoàn cảnh chiến dịch Điện Biên Phủ chưa thể có được. Kê xe đạp lên, một người ngồi trên yên xe đạp liên tục, thế là phòng mổ có nguồn ánh sáng 6 vôn, tạm đủ cho các thầy thuốc làm việc.

Ngoài việc đào phòng mổ, đào hầm kho thuốc, hầm thay băng, còn đào hàng trăm hầm nhỏ cho thương binh và các hào giao thông nối liền giữa các hầm. Như vậy đã hình thành “một bệnh viện trong lòng đất”. Bệnh viện làm thí điểm này được các cán bộ phụ trách, các đội điều trị toàn mặt trận về tham quan học tập rút kinh nghiệm.

Các đội điều trị mặt trận được sắp xếp thành nhiều tuyến. Tuyến một tiếp cận các trận địa là tuyến quân y các đại đoàn, có thêm hai đội điều trị của hậu cần chiến dịch xuống tăng cường; tuyến hai gồm các đội điều trị nằm trong khu vực của hậu cần hỏa tuyến; tuyến ba gồm một số đội điều trị triển khai thành những bệnh viện mặt trận bố trí ở tuyến cuối của hậu phương chiến dịch.

Sang đầu tháng 3 năm 1954, tất cả các đội điều trị đã xây dựng xong các bệnh viện ngầm, các trạm phẫu thuật tiền phương trong lòng đất. Mỗi cơ sở có ít nhất một phòng mổ với hai bàn mổ. Có nơi còn xây dựng một phòng mổ dự bị đề phòng khi địch đánh phá thì di chuyển được ngay đến nơi mới, không để công tác cứu chữa thương binh, bệnh binh bị gián đoạn. Có đội điều trị chiến dịch bố trí trong tầm đại bác địch nhưng do có hầm hào kiên cố, ngay trong lúc địch bắn phá vẫn có thể tiến hành việc cứu chữa thương binh. Các đội điều trị đại đoàn càng tiến gần bộ đội hơn. Các đội quân y trung đoàn trở thành những trạm quân y trong lòng đất với quy mô nhỏ hơn. Phạm vi của các bộ phận quân y tiểu đoàn cũng có hầm hào làm nơi cấp cứu thương binh trước khi chuyển về phía sau.

Việc đào hầm hào để xây dựng các bệnh viện trong lòng đất là những công trình lớn trong nhiệm vụ xây dựng trận địa nói chung của bộ đội ta, tốn nhiều công sức và xương máu. Sau khi đầu hàng, một tên sĩ quan Pháp ngạc nhiên khi trông thấy phòng mổ của quân đội ta. Hắn thốt lên: “Thật không ngờ chỉ cách có vài chục bước chân mà chúng tôi thì chui rúc dưới địa ngục, còn các ông thì ở trên thiên đường”.

Chủ trương đưa phòng mổ ra gần hỏa tuyến được kết hợp chặt chẽ với chủ trương tổ chức việc vận chuyển nhanh thương binh (khi đã được cấp cứu bước đầu) về phía sau đã thực sự giúp cho việc cứu thương được kịp thời hơn.

Cuộc chiến đấu ở hỏa tuyến ngày càng gay go ác liệt, khẩn trương bao nhiêu thì cuộc chiến đấu chống lại cái chết, chống lại thương tật ở các bệnh viện trong lòng đất cũng khẩn trương, gay go bấy nhiêu. Các cán bộ, chiến sĩ quân y chiến dịch suốt 56 ngày đêm thay phiên làm việc liên tục. Phải giải phẫu kịp thời, phải chăm sóc, trông nom, điều trị. Ngoài việc chữa bệnh còn phải đào hầm hào cho anh em trú ẩn. Người bác sĩ buông dao mổ, đi thay băng, giặt quần áo, bón cơm cháo cho thương binh, túc trực bên người bị thương nặng, an ủi, động viên người đau đớn, pha chế thuốc men… không lúc nào thấy hết công việc; nhưng không một lời phàn nàn, không một hành động uể oải, thiếu trách nhiệm. Có nhiều tấm gương cứu chữa rất tận tụy, cảm động.

Đồng chí đội trưởng đội điều trị Đại đoàn 316 kể lại: “… Vết thương ở chiến trường dễ biến chứng thành hoại thư sinh hơi. Phòng hoại thư sinh hơi là vấn đề khó khăn nhất. Lúc đó, điều kiện theo dõi, xét nghiệm thiếu, chỉ có một cách là phải mở băng bệnh nhân ngửi vết thương, ngửi băng. Hoại thư sinh hơi có mùi rất hôi thối, nhưng cuộc sống, sinh mạng của đồng chí vô giá. Chúng tôi không ngần ngại dùng mũi mình để theo dõi, xét nghiệm. Lúc đầu có anh em không dám làm, nhưng sau đó, tất cả các y bác sĩ đều nêu cao tinh thần tất cả vì thương binh, nên suốt chiến dịch, không có ca nào có nguy cơ biến chứng hoại thư sinh hơi mà không được chữa ngay từ đầu. Có những ca sọ não, cột sống…rất nặng, chúng tôi không gọi lại cấp cứu mà là “cướp cứu”, cướp cái sống trên tay thần chết, cướp cái sống chỉ còn lại giây phút. Mặc dù quá khả năng kỹ thuật, dụng cụ thiếu, chúng tôi cũng quyết tâm giải phẫu. “Còn nước còn tát”, “làm hết sức mình”, “không bó tay trước cái chết của đồng đội” là những khẩu hiệu của các cán bộ, chiến sĩ quân y. Chúng tôi vận dụng hết tri thức, kinh nghiệm, nhiệt tình, đem toàn bộ tài trí của cả tập thể ra để đòi lấy sự sống cho đồng chí. Có ca mổ, toàn đội đều túc trực làm việc, thời gian kéo dài 6,7 giờ liền không nghỉ, không kịp ăn uống. Tất cả đều tập trung vào một mục đích duy nhất là để chiến thắng. Sau này nghĩ lại những việc làm ấy mới thấy mình táo bạo. Tài năng còn non kém, tại sao chúng tôi lại thành công trong những ca trọng thương tưởng trừng không thể cứu chữa được.

Vì cái gì mà lúc đó chúng tôi không thể làm được những việc như thế…? Động lực nhiều lắm, nhưng có lẽ động lực chính là người thương binh. Các đồng chí thương binh chính là nguồn cổ vũ chúng tôi. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng tôi cứu chữa hơn một nghìn thương binh, có nhiều đồng chí bị thương rất nặng, cụt cả hai chân, gãy cả hai tay, giập nửa mặt, nhưng chưa bao giờ chúng tôi nghe thấy một tiếng kêu, một tiếng khóc, một cử chỉ yếu đuối về tinh thần của thương binh. Có chăng chỉ nghe thấy tiếng nghiến rang ken két, chỉ thấy những giọt mồ hôi chịu đựng toát lên trên trán, hoặc đôi long mày nhíu lại. Có đồng chí đau quá ngất đi, mê sảng, nhưng trong cơn mê ấy vẫn lẫm liệt chí khí anh hùng. Trước những con người như thế, ai chùn bước, ngại khó, ngại khổ thì thật là tồi tệ…”.

Những chiến sĩ anh hùng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, những bệnh viện trong lòng đất, những chiến sĩ quân y tận tâm vì đồng đội còn luôn ghi sâu mãi trong những trang sử chiến đấu và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hơn 60 năm đã trôi qua, sự đóng góp của lực lượng quân y trong chiến thắng Điện Biên Phủ đã khẳng định sự đoàn kết, quyết tâm vượt khó của cán bộ, chiến sĩ quân y; khẳng định khả năng sáng tạo và nghệ thuật tổ chức chỉ huy quân y độc đáo trong bảo đảm sức khỏe cho bộ đội giành thắng lợi cuối cùng./.


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:



Tin liên quan

     Bình luận


    Mã xác thực không đúng.
       Liên kết website
      Thống kê: 697.983
      Online: 62