Trong bất cứ chiến dịch nào, công tác hậu cần cũng đóng vai trò quan trọng, đảm bảo cung cấp những vấn đề thiết yếu trong sinh hoạt của bộ đội. Đối với chiến dịch Điện Biên Phủ, đây còn là một phần tiên quyết dẫn tới một trong những chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc.

Ngày 06/12/1953, Bộ chính trị Trung ương Đảng đã thông qua quyết tâm mở chiến dịch Điện Biên Phủ, tiêu diệt lực lượng địch đang đóng tại đây. Để đảm bảo giành thắng lợi trong trận đánh quyết định này, Đảng và Bác Hồ đã chủ trương thành lập Hội đồng Cung cấp mặt trận ở trung ương do đồng chí Phạm Văn Đồng (lúc ấy là Phó Thủ tướng) làm chủ tịch và đồng chí Nguyễn Văn Trân (Tổng thanh tra Chính phủ) làm phó thủ tịch làm phó chủ tịch. Không riêng ở trung ương mà các địa phương cũng thành lập Hội đồng Cung cấp mặt trận của liên khu, của tỉnh do đồng chí chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến trực tiếp chịu trách nhiệm. Bộ máy hậu cần chiến dịch lên tới 3.200 người, dân công tuyến chiến dịch có lúc huy động hơn 30.000 người.

Thực tế cho thấy đối với một chiến dịch với quy mô lớn, dài ngày lại xa các căn cứ hậu phương như chiến dịch Điện Biên Phủ thì việc đảm bảo được hậu cần là một thách thức vô cùng lớn. Ngay cả tướng Navarre, Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương cho đến khi bước vào trận đánh cũng không thể tưởng tượng được rằng chúng ta đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi chấp nhận trận giao chiến với người Pháp tại đây. Với khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng” ta đã đưa cả một hậu phương hùng hậu từ vùng tự do, vùng mới giải phóng từ liên khu III, liên khu IV, Việt Bắc và Tây Bắc dồn hết sức người, sức của, sẵn sàng hi sinh cho Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã đề ra những giải pháp quyết đoán. Một mặt động viên nhân dân Tây Bắc ra sức tiết kiệm để đóng góp tại chỗ, mặt khác đẩy mạnh làm đường, sửa đường, huy động tối đa các phương tiện vận chuyển thô sơ như ngựa thồ, xe đạp thồ, thuyền mảng... nhằm giảm đến mức tối đa lượng lương thực thực phẩm tiêu thụ dọc đường do phải đưa từ xa tới.

Một cuộc cách mạng về hậu cần đã làm cho khối lượng khổng lồ lương thực, thực phẩm, thuốc men, đạn dược, vũ khí, … từ vùng do Việt Minh kiểm soát được chuyển lên Điện Biên Phủ một cách nhanh chóng, liên tục không ngừng nghỉ. Chiếc xe đạp do chính người Pháp sản xuất trở thành phương tiện vận chuyển chủ yếu, mỗi xe chở được từ 150kg đến 200kg, dân công Ma Văn Thắng ở Phú Thọ nâng tải trọng chiếc xe của mình lên 337kg, trở thành người đạt năng xuất cao nhất chiến dịch; tên gọi “xe đạp thồ” cũng từ sự kiện này mà ra. Máy bay trinh sát của Pháp liên tục dội bom xuống những tuyến đường, ngăn chặn bước tiến của quân ta, đau thương không phải là ít nhưng chưa bao giờ con đường lên Điện Biên Phủ bị cắt đứt. Trong chiến dịch này, hầu hết xe vận tải của ta đã được đưa ra mặt trận, 628 xe phục vụ liên tục suốt ngày đêm. Bộ đội vận tải đã nêu cao tinh thần dũng cảm, chịu đựng thiếu thốn, khắc phục khó khăn, cho xe chạy không đèn trong đêm, lợi dụng sương mù chạy ban ngày, vựơt qua bom chờ nổ, cơ động nhanh một khối lượng lớn lương thực, đạn dược phục vụ chiến dịch. Công tác Quân y vốn rất cần thiết đối với bộ đội ta ở các chiến trường. Với khẩu hiệu: “Mỗi ô tô là một bệnh xá lưu động”, chiến sĩ quân y đó cùng với lái xe đã tận dụng mọi hình thức như lót lá, lót rơm, làm cáng để vận chuyển thương binh về phía sau một cách an toàn. Các thầy thuốc nổi tiếng như bác sĩ, Bộ trưởng Bộ Y tế Vũ Đình Tụng, Bác sĩ Thứ trưởng Bộ y tế Tôn Thất Tùng  cũng tham gia chiến dịch và trực tiếp phẫu thuật cho thương binh ngay tại mặt trận. Đặc biệt, các Đội quân y Trung đoàn, tiểu đoàn đã bám sát trận địa , xây dựng hệ thống trạm quân y trong lòng đất để cứu chữa thương bệnh binh.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ chỉ huy của ta đóng tại ba địa điểm. Địa điểm thứ nhất đặt ở hang Thẩm Púa, cách Tuần Giáo 15km trong thời gian 32 ngày (từ 17/12/1953 đến 17/01/1954). Địa điểm thứ hai đặt tại hang Huổi He, xã Nà Tấu, huyện Điện Biên trong thời gian 13 ngày (từ 18/01 đến 30/ 01/1954). Mường Phăng là địa điểm thứ ba và cũng là cuối cùng của Bộ chỉ huy chiến dịch từ ngày 31/01 đến 15/5/1954. Chính vì thế Sở chỉ huy hậu cần cũng được di chuyển tới gần địa điểm của Sở chỉ huy chiến dịch theo tình hình thực tế. Tại địa điểm hang Huổi He, xã Nà Tấu, huyện Điện Biên, Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu đóng trong vòng 13 ngày, từ ngày 18/01 đến ngày 30/01/1954 cùng với Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau khi nhận thấy địa điểm này gần đường giao thông, không đảm bảo an toàn nên Bộ chỉ huy chiến dịch đã chuyển sang địa điểm mới tại Mường Phăng thì trạm hậu cần cũng di chuyển theo, tiện cho việc lãnh, chỉ đạo công tác hậu cần.

Sau khi đã chuẩn bị mọi mặt, ngày 13/3/1954, Quân đội nhân dân Việt Nam nổ súng tấn công vào Tập đoàn cứ điểm của Thực dân Pháp, bắt đầu trận công kiên lớn nhất trong lịch sử đất nước từ trước đến nay. 56 ngày đêm ác liệt với ba đợt tấn công, bóc từng lớp vỏ cứng của Tập đoàn cứ điểm đã khiến hơn 16.000 lính Pháp bị loại khỏi vòng chiến đấu cùng toàn bộ “cơ ngơi” của Tập đoàn cứ điểm hoàn toàn thuộc về Việt Minh. Để lá cờ đỏ sao vàng tung bay phất phới trên nóc hầm tên tướng bại trận De Castries vào chiều ngày 07/5/1954, các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu, hi sinh không biết mệt mỏi. Có những cao điểm ta đã phải giành giật với địch 39 ngày đêm; có những trận đánh các đơn vị của ta hi sinh phần lớn vẫn không làm nhụt ý chí tiến lên tiêu diệt quân thù của bộ đội.

Trong 210 ngày (từ tháng 11/1953 đến tháng 5/1954) lực lượng và đảm bảo hậu cần của ta phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ như sau:

- Quân số hậu cần chiến dịch: 3.168 người phân bố trong 7 đội điều trị, 1 đội vận tải ô tô 446 xe, binh trạm 18 và trạm điều chỉnh giao thông, kho quân nhu, quân khí.

- Lực lượng tăng cường có: 4 tiểu đoàn công binh sửa đường, 2 đại đội thông tin, 2 tiểu đoàn 37mm (24 khẩu) và đại đội 12,7mm.

- Lực lượng dân công: 261.453 người với 3 triệu ngày công, 20.991 xe đạp thồ, 11.800 bè mảng, 500 ngựa thồ.

- Lương thực, thực phẩm cung cấp cho chiến dịch: 25.056 tấn gạo, 907 tấn thịt, 917 tấn các loại thực phẩm khác, 1860 lít dầu ăn và 280kg mỡ.

- Quân trang, quân y: 71 tấn quân trang, 1783 tấn xăng dầu; 55 tấn thuốc và dụng cụ quân y. Điều trị cho 10.130 thương binh và bệnh binh (chưa kể số thương binh của địch).

- Về vũ khí, đạn dược: Hơn 3 triệu viên đạn các loại, 96.480 quả lựu đạn, 27,5 tấn thuốc nổ, 4950 chiếc cuốc, 8700 chiếc xẻng, 2920 con dao.

Tổng khối lượng cung cấp cho chiến dịch là 30.759 tấn, trong đó tiêu thụ hết 19.989 tấn. Khối lượng vận chuyển trong chiến dịch Điện Biên Phủ là 4.450.000 tấn/km, gấp 36 lần khối lượng vận chuyển trong chiến dịch Biên giới. Làm mới 89km và sửa chữa, củng cố 500km đường. Đó chính là những kỳ công mà ta đã làm được đưa đến chiến thắng Điện Biên Phủ "chấn động địa cầu".

Cùng với các di tích khác, di tích Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu là một trong những di tích quan trọng khẳng định sức mạnh, sự tài tình linh hoạt, sáng tạo của Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Mặc dù Trạm hậu cần chỉ đóng tại đây 13 ngày nhưng tại đây đã đưa ra những quyết sách, những sự chỉ đạo về công tác hậu cần đảm bảo quá trình chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Tuy nhiên đến nay Di tích Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu vẫn chưa được quy hoạch, trùng tu, tôn tạo. Trong thời gian tới cần khoanh vùng, cắm mốc, khôi phục một phần yếu tố gốc và có biện pháp quản lý, bảo vệ phù hợp với tính chất của di tích./.


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:



Tin liên quan

     Bình luận


    Mã xác thực không đúng.
       Liên kết website
      Thống kê: 698.320
      Online: 56