Tổng khối lượng cung cấp cho chiến dịch là 30.759 tấn, trong đó tiêu thụ hết 19.989 tấn. Khối lượng vận chuyển trong chiến dịch Điện Biên Phủ là 4.450.000tấn/km, gấp 36 lần khối lượng vận chuyển trong chiến dịch Biên giới. Làm mới 89km và sửa chữa, củng cố 500km đường. Đó chính là những kỳ công của ta đảm bảo cho chiến dịch thắng lợi.

Quyết định đánh chiếm Điện Biên Phủ, xây dựng một Tập đoàn cứ điểm mạnh tại đây đã cho thấy quyết tâm thôn tính nước Việt Nam cho kỳ được của Thực dân Pháp. Sau khi thất bại ở hầu khắp các chiến trường đồng thời nhằm cứu vãn bản kế hoạch Nava đang bị nghi ngờ về tính khả thi của nó thì lần này vùng rừng núi Tây Bắc hẻo lánh lại là mục tiêu tâm điểm, là nỗ lực cuối cùng, lớn nhất và mang tính chất quyết định cho toàn bộ cục diện cuộc chiến của cả hai bên. Với người Pháp, Điện Biên Phủ có những lợi thế rõ ràng về mặt quân sự và họ đã biến những lợi thế đó thành điểm mạnh trong quá trình xây dựng Tập đoàn cứ điểm này.

49 cứ điểm, với 8 trung tâm đề kháng được định hình một cách nhanh chóng trong ba phân khu trải dài khắp lòng chảo Mường Thanh. Mỗi cứ điểm là một hệ thống phòng ngự với binh lực, hỏa lực lợi hại, được trang bị các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân, được bảo vệ hết sức nghiêm ngặt; bản thân mỗi cứ điểm lại có khả năng chi viện cho các cứ điểm khác khi cần, tạo nên một mạng lưới liên hoàn của toàn bộ Tập đoàn cứ điểm. Viện trợ của Mỹ được ưu tiên tối đa cho Điện Biên Phủ, các nhân vật cao cấp của cả Pháp và Mỹ dành sự quan tâm tuyệt đối cho cuộc chiến; các sĩ quan giỏi nhất cũng được huy động trong viễn tưởng của ánh hào quang chiến thắng. Không thể phủ nhận, cho đến thời điểm ấy, đó là Tập đoàn cứ điểm mạnh nhất chưa từng có ở Đông Dương, là niềm tự hào của cả Pháp và Mỹ trong sự tính toán một cách khoa học, logic của những người đứng đầu đội quân viễn chinh Pháp.

Ngay khi biết Thực dân Pháp dựng lên một cái bẫy khổng lồ ở Điện Biên Phủ, Bộ Chính trị và Trung ương Đảng đã chấp nhận giao chiến với chúng, chọn Điện Biên Phủ là điểm quyết chiến chiến lược để kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang ngày càng có lợi cho ta. Một kế hoạch chuẩn bị cho cuộc chiến vĩ đại sắp tới được chuẩn bị kỹ lưỡng với sự góp sức của cả nước. Bốn đại đoàn bộ binh, một đại đoàn pháo binh được lệnh hành quân ra mặt trận. Bên cạnh đó, lần đầu tiên trong lịch sử cả dân tộc đã ra mặt trận cùng bộ đội đánh giặc với đủ lực lượng từ thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến; già, trẻ, gái, trai từ nhiều địa phương. Một cuộc cách mạng về hậu cần đã làm cho một khối lượng khổng lồ lương thực, thực phẩm, thuốc men, đạn dược, vũ khí, … từ vùng do Việt Minh kiểm soát được chuyển lên Điện Biên Phủ một cách nhanh chóng, liên tục không ngừng nghỉ. Số lượng những người vận chuyển này nhiều hơn quân đội, gấp nhiều lần quân đội và được tổ chức, biên chế như quân đội. Đoàn người vận chuyển lương thực, đoàn quân hực hực khí thế, đoàn xe vận chuyển vũ khí, đạn dược thành dòng chảy bất tận tiến lên Điện Biên Phủ. Trong dòng chảy ấy, những dân công sẵn sàng chỉ ăn rau dại, măng rừng và chút ít gạo buộc ở ghi đông xe đạp thồ, tuyệt nhiên không dám động vào hạt gạo chở lên Điện Biên Phủ; họ sẵn sàng nằm trên những tấm ni lông trải dưới đất, không dám ngủ hết giấc; những bàn chân, đôi tay chai sần, tóe máu gắng sức để đi vậy mà khối lượng lương thực vận chuyển được luôn vượt mức, hết lượt này đến lượt khác vượt qua địa hình hiểm trở, qua lửa đạn của quân thù để hoàn thành nhiệm vụ; chiếc xe đạp do chính người Pháp sản xuất trở thành phương tiện vận chuyển chủ yếu, mỗi xe chở được từ 150kg đến 200kg, dân công Ma Văn Thắng ở Phú Thọ nâng tải trọng chiếc xe của mình lên 337kg, trở thành người đạt năng xuất cao nhất chiến dịch; tên gọi “xe đạp thồ” cũng từ sự kiện này mà ra. Máy bay trinh sát của Pháp liên tục dội bom xuống những tuyến đường, ngăn chặn bước tiến của quân ta, đau thương không phải là ít nhưng chưa bao giờ con đường lên Điện Biên Phủ bị cắt đứt. Hàng trăm dân công sửa đường vẫn miệt mài làm việc, vẫn lặng lẽ hi sinh để cho tuyến đường luôn được thông suốt; để cho việc tải lương, tải đạn chưa bao giờ bị chậm trễ, ngừng nghỉ. Trong chiến dịch này, hầu hết xe vận tải của ta đã được đưa ra mặt trận, 628 xe phục vụ liên tục suốt ngày đêm. Bộ đội vận tải đã nêu cao tinh thần dũng cảm, chịu đựng thiếu thốn, khắc phục khó khăn, cho xe chạy không đèn trong đêm, lợi dụng sương mù chạy ban ngày, vựơt qua bom chờ nổ, cơ động nhanh một khối lượng lớn lương thực, đạn dược phục vụ chiến dịch.

Cùng với việc tích cực chuẩn bị chiến trường, ở hậu phương (vùng mới giải phóng) Đảng ta quyết tâm thực hiện chủ trương cải cách ruộng đất, đem lại ruộng đất cho người dân. Có thể nói lần đầu tiên người dân được làm chủ trên chính mảnh đất của họ, là bước ngoặt trong cuộc sống của dân cày, động viên được các tầng lớp nhân dân ở vùng tự do, mới giải phóng và sau lưng địch tin tưởng vào đường lối của Đảng, một lòng một dạ đi theo cách mạng; sẵn sàng chi viện hết mình cho tiền tuyến. Chủ trương này còn mang lại cho cả cán bộ, chiến sĩ ở tiền tuyến yên tâm chiến đấu, hoàn thành sứ mệnh cách mạng của mình. Vì thế, toàn dân tộc đã tạo thành khối đại đoàn kết, dồn sức người, sức của, sức tinh thần cho chiến dịch. Thực tiễn đã khẳng định: đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc của Đảng và sức mạnh to lớn của nhân dân là nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của chiến dịch.

Navarre đã tính toán mọi kế hoạch, biện pháp và khả năng để Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phát huy sức mạnh một cách tối ưu nhất. Một cái bẫy khổng lồ được dựng sẵn dưới lòng chảo để nhử quân chủ lực Việt Nam đến để giao chiến, nhưng chúng không biết rằng vị chỉ huy tối cao của chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng có những tính toán của riêng mình và đó là tính toán của người Việt Nam trên mảnh đất mà họ được quyền làm chủ. Thực tế đã cho thấy với địa hình đặc biệt như ở Điện Biên Phủ không phải là không có lợi cho Quân đội nhân dân Việt Nam; những vùng rừng núi bao quanh lòng chảo Điện Biên Phủ rất dễ dàng cho quân ta có thể che giấu những loại vũ khí lớn mà địch khó có thể phát hiện ra được, đặc biệt là những khẩu pháo to. Điều quan trọng là làm thế nào để di chuyển những khẩu pháo ấy vào những vị trí thuận lợi và ngụy trang hoàn hảo, là một bất ngờ lớn với Thực dân Pháp. Để tạo nên bất ngờ ấy hàng trăm con người, bộ đội và dân công đã nỗ lực phi thường làm nên điều không tưởng: Mở con đường kéo pháo bằng tay với chiều dài 15km, rộng 3m vượt qua đỉnh Pu Pha Sông cao 1175m để kéo những khẩu pháo nặng hơn 2 tấn hoàn toàn bằng sức người lên núi. Khi công việc còn chưa xong thì có quyết định thay đổi phương châm từ “Đánh nhanh, thắng nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc”. Mọi công tác chuẩn bị cho phương án mới được thực thi một cách nhanh chóng, quan trọng là chuẩn bị hậu cần cho đánh dài ngày và kéo pháo ra quay về vị trí tập kết để làm hầm trú ẩn cho pháo ở những vị trí thuận lợi, an toàn hơn. Một lần nữa con đường kéo pháo lại trở thành chướng ngại vật khổng lồ, có thể làm chùn bước chân của bất cứ chiến sĩ nào. Vậy mà, vẫn những con người ấy lại nhẫn nại từng chút một, đưa từng khẩu pháo xuống dốc, quay về vị trí ban đầu một cách an toàn. Rất nhiều các chiến sĩ của ta đã bị thương bởi máy bay oanh tạc của địch; trường hợp anh Tô Vĩnh Diện hi sinh khi lấy cả thân mình cứu pháo là tấm gương tiêu biểu cho tinh thần vì nước quên thân; trong những lúc hiểm nguy, gian khó chủ nghĩa anh hùng cách mạng lại sáng ngời hơn bao giờ hết.

Công tác Quân y vốn rất cần thiết đối với bộ đội ta ở các chiến trường. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ đóng một vai trò vô cùng quan trọng và có bước tiến bộ hơn hẳn các chiến dịch trước. Với khẩu hiệu: “Mỗi ô tô là một bệnh xá lưu động”, chiến sĩ quân y đó cùng với lái xe đã tận dụng mọi hình thức như lót lá, lót rơm, làm cáng để vận chuyển thương binh về phía sau một cách an toàn. Các thầy thuốc nổi tiếng như bác sĩ, Bộ trưởng Bộ Y tế Vũ Đình Tụng, Bác sĩ Thứ trưởng Bộ y tế Tôn Thất Tùng  cũng tham gia chiến dịch và trực tiếp phẫu thuật cho thương binh ngay tại mặt trận. Đặc biệt, các Đội quân y Trung đoàn, tiểu đoàn đã bám sát trận địa , xây dựng hệ thống trạm quân y trong lòng đất để cứu chữa thương bệnh binh.

Sau khi đã chuẩn bị mọi mặt, ngày 13/3/1954, Quân đội nhân dân Việt Nam nổ súng tấn công vào Tập đoàn cứ điểm của Thực dân Pháp, bắt đầu trận công kiên lớn nhất trong lịch sử đất nước từ trước đến nay. 56 ngày đêm ác liệt với ba đợt tấn công, bóc từng lớp vỏ cứng của Tập đoàn cứ điểm đã khiến hơn 16.000 lính Pháp bị loại khỏi vòng chiến đấu cùng toàn bộ “cơ ngơi” của Tập đoàn cứ điểm hoàn toàn thuộc về Việt Minh. Để lá cờ đỏ sao vàng tung bay phất phới trên nóc hầm tên tướng bại trận De Castries vào chiều ngày 07/5/1954, các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu, hi sinh không biết mệt mỏi. Có những cao điểm ta đã phải giành giật với địch 39 ngày đêm; có những trận đánh các đơn vị của ta hi sinh phần lớn vẫn không làm nhụt ý chí tiến lên tiêu diệt quân thù của bộ đội.

Trong 210 ngày (từ tháng 11/1953 đến tháng 5/1954) lực lượng và đảm bảo hậu cần của ta phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ như sau:

- Quân số hậu cần chiến dịch: 3.168 người phân bố trong 7 đội điều trị, 1 đội vận tải ô tô 446 xe, binh trạm 18 và trạm điều chỉnh giao thông, kho quân nhu, quân khí.

- Lực lượng tăng cường có: 4 tiểu đoàn công binh sửa đường, 2 đại đội thông tin, 2 tiểu đoàn 37mm (24 khẩu) và đại đội 12,7mm.

- Lực lượng dân công: 261.453 người với 3 triệu ngày công, 20.991 xe đạp thồ, 11.800 bè mảng, 500 ngựa thồ.

- Lương thực, thực phẩm cung cấp cho chiến dịch: 25.056 tấn gạo, 907 tấn thịt, 917 tấn các loại thực phẩm khác, 1860 lít dầu an và 280kg mỡ.

- Quân trang, quân y: 71 tấn quân trang, 1783 tấn xăng dầu; 55 tấn thuốc và dụng cụ quân y. Điều trị cho 10.130 thương binh và bệnh binh (chưa kể số thương binh của địch).

- Về vũ khí, đạn dược: Hơn 3 triệu viên đạn các loại, 96.480 quả lựu đạn, 27,5 tấn thuốc nổ, 4950 chiếc cuốc, 8700 chiếc xẻng, 2920 con dao.

Tổng khối lượng cung cấp cho chiến dịch là 30.759 tấn, trong đó tiêu thụ hết 19.989 tấn. Khối lượng vận chuyển trong chiến dịch Điện Biên Phủ là 4.450.000tấn/km, gấp 36 lần khối lượng vận chuyển trong chiến dịch Biên giới. Làm mới 89km và sửa chữa, củng cố 500km đường. Đó chính là những kỳ công của ta đảm bảo cho chiến dịch thắng lợi.

Chiến thắng vĩ đại của người Việt Nam tại mảnh đất Điện Biên Phủ năm 1954 là một bước ngoặt của lịch sử thế giới đương đại. Đối với Việt Nam, chưa đầy 10 năm sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, họ đã làm nên một chiến thắng vô song "Trên thế giới chưa từng có. Trong lịch sử chưa từng thấy” bằng sức mạnh đoàn kết, nhất trí của toàn dân tộc. Đây cũng là chiến thắng quân sự lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954 của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp, chấm dứt sự đô hộ chế độ của Thực dân, buộc Pháp phải ký hiệp định Giơ ne vơ công nhận độc lập, chủ quyền của ba nước Việt Nam, Lào, Căm Pu Chia, cuốn cờ, rút quân khỏi Việt Nam, từ đây miền Bắc Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong chiến dịch này, công tác hậu cần đã trải qua nhiều khó khăn trở ngại, nhiều lúc tưởng chừng như không thể vượt qua được. Nhưng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, toàn quân tham gia, được hậu phương hết lòng chi viện, công tác hậu cần đã hoàn thành được nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang, góp phần vào chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” của toàn dân tộc. Đó là một đòn sấm sét giáng mạnh vào chủ nghĩa thực dân và đế quốc trên toàn thế giới, làm thay đổi cục diện chính trị - quân sự ở Đông Dương, làm lung lay thành trì của Pháp tại các nước thuộc địa, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh dành độc lập dân tộc bị áp bức trên thế giới.


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:



 Bình luận


Mã xác thực không đúng.
     Liên kết website
    Thống kê: 697.826
    Online: 37