Đúng 105 năm trước đây (ngày 7/11/1917), Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại giành thắng lợi đã mở ra một kỷ nguyên mới cho nhân loại, kỷ nguyên ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Bắt đầu từ nước Nga, với mục tiêu là giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, mang lại cơm áo, tự do, bình đẳng, hạnh phúc cho nhân dân, chủ nghĩa xã hội hiện thực như vầng dương bừng sáng giữa đêm tối, nhanh chóng lan tỏa trên khắp các châu lục.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô viết, từ một nước kém phát triển, nước Nga, sau đó là Liên Xô vươn lên trở thành một trong hai siêu cường kinh tế của thế giới. Trong lịch sử, để trở thành một nước công nghiệp, nước Anh cần 200 năm, nước Mỹ cần 120 năm, Nhật Bản cần 40 năm, trong khi đó, Liên Xô chỉ cần 18 năm để hoàn thành về cơ bản quá trình công nghiệp hóa của mình. Đây là tốc độ công nghiệp hóa nhanh nhất mà thế giới từng ghi nhận. Nếu không có các chính sách công nghiệp hóa đó thì Liên Xô không thể duy trì nền độc lập chính trị và kinh tế của đất nước, không thể chiến đấu và giành chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trên các lĩnh vực văn hóa xã hội, Liên Xô cũng nhanh chóng vươn lên trở thành cường quốc. Trước Cách mạng Tháng Mười, 3/4 nhân dân Nga mù chữ, chỉ sau 20 năm, Liên Xô đã xóa xong nạn mù chữ. Vào cuối năm 1980, Liên Xô là một trong những nước có trình độ học vấn cao nhất thế giới, 164 triệu nguời có trình độ trung học và đại học, số lượng các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực cũng đứng vào hàng đầu thế giới. Một số lĩnh vực như khoa học vũ trụ, điện hạt nhân, luyện kim, công nghệ vũ khí... Liên Xô đã có được vị trí dẫn đầu thế giới. Năm 1957, Liên Xô là nước đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo vào không gian vũ trụ và năm 1961 lần đầu tiên đưa con người lên vũ trụ, mở ra khả năng chinh phục vũ trụ của con người. Năm 1949, Liên Xô thử thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền vũ khí nguyên tử của Mỹ, trở thành một trong những cường quốc có sức mạnh quốc phòng quân sự to lớn, thực sự là lực lượng trụ cột trong việc ngăn chặn họa phát xít và bảo vệ hòa bình thế giới. Liên Xô bảo đảm cho quần chúng công nông được hưởng đầy đủ các quyền chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ sức khoẻ, chữa bệnh và nhiều giá trị khác nữa như quyền nhà ở, quyền được học tập, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Trên phạm vi quốc tế, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã chặt đứt mắt xích yếu nhất trong sợi dây của chủ nghĩa đế quốc. Nước Nga Xô viết ra đời, lập nên một chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt hơn hẳn chủ nghĩa tư bản, đánh dấu sự xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, trên thực tế là mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Từ đây “Cách mạng Tháng Mười đã mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới”.
Đối với Việt Nam, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã khởi đầu cho quá trình ủng hộ, giúp đỡ to lớn và toàn diện của Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô. Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở Chủ nghĩa Mác - Lênin con đường cứu nước duy nhất đúng cho dân tộc mình. Cũng từ đó, Cách mạng Tháng Mười Nga đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tác động mạnh mẽ đến cách mạng Việt Nam.
Sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, bằng sự độc lập, tự chủ và với những cách thức truyền bá hết sức phong phú và đa dạng, dễ gần, dễ hiểu, Nguyễn Ái Quốc đã làm tất cả những gì có thể để truyền bá lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác - Lênin và tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng vô sản ở Việt Nam. Sản phẩm của quá trình chuẩn bị công phu đó chính là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu tháng 2/1930. Đảng mới ra đời nhưng đã có ngay một Cương lĩnh chính trị đúng đắn, phác thảo những vấn đề cơ bản về chiến lược của cách mạng Việt Nam, thể hiện sự kết hợp chặt chẽ độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước, mở ra thời đại mới cho cách mạng Việt Nam.
Xác định đúng đường lối chiến lược giải phóng dân tộc trong bối cảnh lịch sử phức tạp thời đó đã là khó, làm thế nào để đưa tư tưởng của đường lối vào thực tiễn, biến mục tiêu lý tưởng thành hiện thực lại càng khó hơn. Thực tế lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước của Đảng và Nhân dân ta từ năm 1930 đến năm 1975 không phải lúc nào cũng bằng phẳng, chỉ có thuận lợi và thành công; trái lại, đó là sự nghiệp đầy cam go, thử thách, thậm chí có cả những thời điểm phong trào cách mạng bị địch khủng bố và tàn sát dã man, tình cảnh đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”, vận mệnh của Đảng và dân tộc rơi vào tình thế hiểm nghèo tưởng chừng như không thể vượt qua.
Hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cũng giống như tình cảnh của nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười, trong khi chúng ta đang rất cần một môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước, hàn gắn những vết thương nghiêm trọng do hai cuộc chiến tranh tàn khốc và kéo dài gây ra thì chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lại ra sức chống phá hòng thủ tiêu thành quả cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã phải tốn bao công sức và xương máu mới giành được. Bắt đầu từ việc Mỹ và các nước phương Tây thực hiện bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị đối với Việt Nam, đến cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam rồi biên giới phía Bắc bùng nổ… không thể vượt qua.
Trên thực tế, từ năm 1975 đến năm 1991, chưa một ngày nào chúng ta được sống trong hòa bình thực sự để xây dựng và phát triển đất nước. Những khó khăn do khách quan mang lại, cùng với những sai lầm chủ quan trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước đã làm cho tình hình kinh tế - xã hội của nước ta lâm vào khủng hoảng, bắt đầu từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX và kéo dài trong nhiều năm sau đó. Thực tiễn lịch sử đòi hỏi chúng ta phải đổi mới, vì liên quan tới vận mệnh đất nước, sự tồn vong của chế độ. Nhưng đổi mới thế nào để vừa sửa chữa được những sai lầm, khuyết điểm, vừa bảo đảm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trụ vững và phát triển.
Từ lý luận Mác - Lênin, được hiện thực hóa trên đất nước Xô viết sau Cách mạng Tháng Mười Nga, lại tiếp thêm sức mạnh, trở thành nguồn cổ vũ lớn lao để Đảng và nhân dân ta tiếp tục sự nghiệp đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đổi mới nhưng không thay đổi mục tiêu con đường đã chọn. Đây chính là điểm khác nhau cơ bản giữa đổi mới ở Việt Nam với nhiều nước xã hội chủ nghĩa cùng thời. Nhờ đó, công cuộc đổi mới ở Việt Nam mặc dù diễn ra trong bối cảnh hết sức khó khăn, phức tạp nhưng vẫn giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Hơn 100 năm đã trôi qua kể từ ngày Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi. Khoảng thời gian ấy không dài so với lịch sử nhân loại, nhưng đủ để chúng ta nhìn nhận, đánh giá khách quan giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga. Điểm lại những nốt thăng trầm của lịch sử Việt Nam trước và sau Cách mạng Tháng Mười Nga, nghĩ về những trang sử chói ngời của đất nước Xô viết qua hai phần ba thế kỷ, chứng kiến những đổi thay của thế giới đương đại và sự điều chỉnh, thích nghi tạm thời nhưng đầy những mâu thuẫn bản chất không thể hóa giải được, báo trước sự tất yếu cáo chung của chủ nghĩa tư bản, chúng ta càng thấm thía những giá trị đích thực mà Cách mạng Tháng Mười Nga đã mang lại cho nhân loại. Cách mạng Tháng Mười Nga mãi mãi không chỉ là biểu tượng của khát vọng và sức mạnh của chủ nghĩa xã hội, mà những bài học từ cuộc cách mạng ấy vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.