“Thảm họa da cam, nỗi đau da cam - một thảm họa kinh hoàng, một nỗi đau xuyên thế kỷ”. 60 năm đã trôi qua,một nỗi đau không chỉ đối với các nạn nhân mà còn là nỗi đau chung của cả dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ trên thế giới.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ không chỉ dùng các loại bom đạn, vũ khí gây thương vong mà còn sử dụng cả chất độc da cam/dioxin, nhằm triệt hạ nguồn sinh sống của nhân dân Việt Nam, ngăn chặn bước tiến của các lực lượng vũ trang cách mạng, biến Việt Nam thành phòng thí nghiệm khổng lồ để nghiên cứu thử nghiệm các loại chất độc.
Trước những phong trào nổi dậy mãnh liệt của người dân Việt Nam. Ngày 15/01/1961, sau khi nhậm chức, Tổng thống Mỹ Kennedy đã tuyên bố dùng chất diệt cỏ để kiểm soát, ngăn chặn Cộng sản. Ngày 10/8/1961,phi vụ đầu tiên thử nghiệm chất Dinoxol do không quân Sài Gòn tiến hành tại khu vực phía Bắc tỉnh Kon Tum bằng máy bay trực thăng H34 có gắn thiết bị phun. Chỉ trong 10 năm (từ năm 1961 đến năm 1971) quân đội Mỹ đã tiến hành 19.905 phi vụ, phun rải 80 triệu lít chất độc hóa học, 61% trong đó là chất da cam, chứa 366 kg dioxin xuống 3,06 triệu ha đất của miền Nam Việt Nam.Trong đó 86% diện tích bị phun rải hơn 2 lần, 11% diện tích bị phunrải hơn 10 lần.
Việc sử dụng chất da cam/dioxin ở chiến trường trong suốt 10 năm đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, không chỉ huỷ hoại môi trường, các hệ sinh thái mà còn tác hại đến sức khỏe con người Việt Nam trong suốt 60 năm qua. Hơn 3 triệu ha rừng bị tàn phá nặng nề;Khoảng 4,8 triệu người Việt Nam đã bị phơi nhiễm chất độc hoá học, khoảng 3 triệu người là nạn nhân chất độc da cam trong đó có nhiều người thuộc thế hệ thứ 2, thứ 3.
Thảm hoạ da cam với biết bao thảm cảnh không sao kể xiết. Hàng trăm nghìn nạn nhân đã chết, hàng trăm nghìn người đang vật lộn với bệnh tật hiểm nghèo. Chất độc da cam/dioxin có thể gây tổn thương đa dạng và phức tạp trên tất cả các bộ máy sinh lý của cơ thể, gây ung thư da, gan, tuyến giáp, đái tháo đường, nội tiết, thần kinh. Tác động quan trọng trong gây đột biển gen và nhiễm sắc thể, từ đó gây nên các dị tật bẩm sinh, các tai biến sinh sản. Các bệnh phổ biến ở con, cháu nạn nhân chất độc da cam là dị dạng, dị tật hoặc tâm thần phân liệt… nó đã làm cho nhiều cặp vợ chồng hữu sinh vô dưỡng không được làm cha, làm mẹ và ngược lại có hàng triệu cặp vợ chồng sinh từ 2 - 6 người con đều bị tật nguyền, vô thức hoặc chết dần, chết mòn... Họ sinh và nuôi con mà ruột đau như cắt, nuôi con càng nhiều năm gia cảnh càng nghèo, con càng lớn càng đau khổ, nỗi khổ đeo đẳng cho cha, mẹ, ông bà và dòng họ trong suốt cuộc đời. Những ông bố, bà mẹ thì mang trong người những căn bệnh ung thư, bệnh nan y khác đang gặm nhấm từng tế bào giằng xé nỗi đau và cuộc sống của họ. Đặc biệt là chất độc da cam có thể di truyền qua nhiều thế hệ và ở Việt Nam di chứng da cam đã truyền sang thế hệ thứ 3, thứ 4.
Đời sống vật chất, tinh thần của nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam còn rất khó khăn, thiếu thốn, nhất là những gia đình có nhiều nạn nhân, nạn nhân bị bệnh nặng, bệnh tật thường xuyên tự phát. Các nạn nhân là dân thường không còn khả năng lao động, không có nguồn thu. Mức chi phí nuôi dưỡng chữa bệnh lớn, vượt qua ngoài khả năng thanh toán của gia đình. Có thể nói “Nạn nhân chất độc da cam là những người nghèo nhất trong những người nghèo, những người đau khổ nhất trong những người đau khổ”.
Trước những hậu quả nặng nề của di chứng chiến tranh để lại, trong những năm qua, các tổ chức trong nước và bạn bè quốc tế đã thường xuyên quan tâm, ủng hộ nạn nhân da cam/dioxin, với mong muốn sẻ chia bớt khó khăn, gian khổ mà họ đang gánh chịu.
Tháng 10/1980, Chính phủ thành lập Ủy ban đặc biệt điều tra hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam (gọi tắt là Ủy ban 10-80) nhằm có một cuộc điều tra cụ thể, đầy đủ những tác động tàn khốc của chất độc hóa học lên con người và môi trường tại những vùng đất quân đội Mỹ đã phun rải trong thời gian chiến tranh. Kết quả điều tra của Ủy ban 10-80 đã khẳng định, tác hại của chất độc da cam/dioxin là vô cùng trầm trọng, để lại hậu quả nặng nề và lâu dài đối với con người và môi trường Việt Nam.
Tháng 3/1999, Ban Chỉ đạo Quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam được thành lập.
Ngày 23/2/2000, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 26/2000/QĐ-TTg về một số chế độ mang tính bảo trợ xã hội đối với người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm Chất độc hóa học (CĐHH) do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam.
- Ngày 05/7/2002, Bộ Chính trị ra Thông báo số 69-TB/TW về chủ trương giải quyết hậu quả CĐHH do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam.
Tháng 01/2004, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam được thành lập, trở thành “ngôi nhà chung” của các nạn nhân da cam. Đây được coi là bước tiến quan trọng, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước với nhiệm vụ khắc phục hậu quả chất độc hóa học; hỗ trợ đời sống tinh thần, vật chất cho nạn nhân da cam.
Ngày 10/01/2004, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (VAVA) chính thức được thành lập nhằm giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi cho những nạn nhân chất độc da cam, góp phần khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam.
Ngày 5/2/2004, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 16/2004/QĐ-TTg về trợ giúp đối với hộ gia đình có từ 2 người trở lên không tự phục vụ được do hậu quả chất độc hóa học.
Ngày 25/6/2004 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã quyết định lấy ngày 10/8 hàng năm là Ngày “Vì Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam”.
Ngày 29/6/2005, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH11 về ưu đãi người có công với cách mạng, trong đó quy định người hoạt động kháng chiến bị nhiễm CĐHH và con đẻ của họ bị dị dạng, dị tật, suy giảm khả năng tự lực trong sinh hoạt hoặc lao động là đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi người có công với cách mạng
Ngày 06/4/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 35/2010/NĐ-CP, theo đó, mức trợ cấp chính của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm CĐHH gần bằng mức trợ cấp của bệnh binh.
Đặc biệt, ngày 14/5/2015, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 43- CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam…
Và còn rất nhiều chính sách khác của Nhà nước thể hiện sự quan tâm đối với những nạn nhân của chiến tranh bị nhiễm chất độc hóa học.
Bằng những chủ trương đúng đắn, những chính sách của Nhà nước đối với nạn nhân chất độc da cam đã thật sự đi vào cuộc sống và xã hội, hàng triệu nạn nhân chất độc da cam đã được chăm lo giúp đỡ. Phong trào “Hành động vì nạn nhân chất độc da cam” do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động được đông đảo các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước quan tâm, hưởng ứng.
Hàng năm, Nhà nước đã dành khoản ngân sách hơn 10.000 tỷ đồng để trợ cấp hàng tháng, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng cho nạn nhân, hỗ trợ những vùng đặc biệt khó khăn do bị ảnh hưởng nặng nề của chất độc da cam. Đảng, Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề da cam; xác định công tác khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam đối với môi trường và sức khỏe con người là vấn đề vừa cấp bách vừa lâu dài, tích cực đấu tranh đòi công lý cho các nạn nhân, kêu gọi sự hợp tác quốc tế để khắc phục thảm họa và qua đó cảnh tỉnh nhân loại hãy cảnh giác với những tham vọng dùng chiến tranh hóa học để hủy diệt môi trường sống, hủy diệt con người.
Thảm họa da cam đã qua 60 năm, song vẫn còn những hậu quả để lại. Với truyền thống đoàn kết, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc Việt Nam, ngày 10/8 - Ngày vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam được xem như là điểm hẹn của những nghĩa cử cao đẹp vì đạo nghĩa, để toàn thể nhân dân Việt Nam cùng “Chung tay xoa dịụ nỗi đau da cam”, tích cực ủng hộ giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam về tinh thần, vật chất, để sẻ chia giúp đỡ họ vượt qua nỗi đau của số phận, vươn lên trong cuộc sống, hòa nhập cộng đồng.