Sinh ra bên dòng sông Kiến Giang, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình của dải đất miền Trung gió lào, cát trắng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; vị tướng kiệt xuất; nhà chiến lược mưu trí, sáng tạo; vị Tổng tư lệnh văn võ song toàn; “Tư lệnh của các Tư lệnh”; “Chính ủy của các Chính ủy”…sau hành trình cuộc đời đã trở về an nghỉ trên đỉnh Đảo Yến - Vũng Chùa. Từ một người con lớn lên giữa cảnh đất nước chìm trong khói lửa chiến tranh rồi trở thành một nhà giáo, nhà báo, nhà sử học, nhà hoạt động cách mạng, không qua các trường lớp quân sự mà bằng con đường tự học và trải nghiệm thực tiễn hoạt động, chiến đấu đã trở thành một “Đại tướng của nhân dân”. Tên tuổi của ông gắn liền với hàng trăm trận đánh, trải dọc các miền của đất nước từ Bắc vào Nam với những quyết sách thay đổi cả vận mệnh của chiến tranh cách mạng, nhưng với chiến dịch Điện Biên Phủ Đông Xuân 1953 -1954, dấu ấn của Đại tướng để lại vô cùng đặc biệt. Nhắc đến chiến thắng lịch sử “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” là nhắc đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp, dưới lá cờ Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, là vị “Tư lệnh linh hồn” của chiến dịch, để ba tiếng Điện Biên Phủ sống mãi trong lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911 - 2013) là con thứ năm trong gia đình nhà nho nghèo ở thôn An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đang bôn ba khắp thế giới tìm đường cứu nước thì ông cũng tham gia cách mạng sôi nổi với các phong trào đấu tranh của sinh viên Trường Quốc học Huế, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, tham gia Đông Dương Cộng sản liên đoàn, một trong ba tổ chức cách mạng sau này được Chủ tịch Hồ Chí Minh hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam, tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương… Ngày 3/5/1940, với bí danh là Dương Hoài Nam, ông đã cùng với đồng chí Phạm Văn Đồng lên Cao Bằng rồi sang Trung Quốc gặp Nguyễn Ái Quốc, bí danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời gian này. Cuộc gặp gỡ định mệnh đó và sau này được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam đã khiến ông trở thành người học trò xuất sắc của Hồ Chủ tịch. Phong trào đấu tranh cách mạng ngày càng lớn mạnh, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, ngày truyền thống của Quân đội Nhân dân Việt Nam, “người anh cả” của Quân đội đã thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với 34 người tại khu rừng Trần Hưng Đạo.

Trải qua 8 năm kháng chiến, từ lực lượng ban đầu khoảng một đại đội, đến năm 1953, Quân đội ta đã trưởng thành với 6 sư đoàn quân chủ lực cùng lực lượng du kích địa phương, dân quân, thanh niên xung phong trải rộng cả nước. Dưới sự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Quân đội đó đã được trao một sứ mệnh lịch sử để hành quân lên mảnh đất Điện Biên Phủ - điểm hẹn quyết định số phận của Thực dân Pháp.

Cuối năm 1953, để kết thúc chiến tranh trên tư thế bên chiến thắng, Thực dân Pháp đã ném xuống Điện Biên Phủ một lực lượng quân dù tinh nhuệ đã chiến đấu từ khắp nơi trên thế giới, quyết biến thung lũng ở ngã ba Đông Dương có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng này thành nơi nghiền nát những sư đoàn của Việt Minh. Tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương được bố trí thành 49 cứ điểm trải dài suốt lòng chảo với quân số 17 tiểu đoàn, được trang bị hỏa lực cực mạnh như xe tăng, máy bay, trọng pháo và các loại vũ khí hiện đại nhất. Vũ khí, khí tài quân sự, phương tiện chiến tranh được cường quốc số một thế giới là Mỹ viện trợ 70 % cùng với hàng trăm máy bay ném bom luôn sẵn sàng cất cánh chi viện từ tàu sân bay ở biển Đông.

Quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ

Cùng lúc đó, tại ngôi lán tre ở vùng sơ tán, căn cứ địa bí mật nằm sâu trong vùng núi Thái Nguyên của chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam cũng quyết định chọn Điện Biên Phủ là trận đánh kết thúc với quân Pháp. Một quân đội đã từng bước trưởng thành nhưng là của một nước thuộc địa nhỏ bé, trang bị thô sơ với lối đánh du kích sở trường quyết đối đầu trực diện với quân đội Pháp nhưng với quyết tâm và sự chỉ đạo của các thiên tài quân sự, mọi chuyện đều có thể. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cử làm Bí thư Đảng ủy kiêm Tổng chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi lên đường ra mặt trận, ông có đến Khuổi Tát, Định Hóa, Thái Nguyên để chào Bác và xin ý kiến chỉ thị. Bác hỏi Đại tướng: “Chú đi xa như vậy, chỉ đạo các chiến trường có gì trở ngại không?”. Đại tướng trả lời: "Thưa bác! Chỉ trở ngại là ở xa, khi có vấn đề quan trọng khó xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị". Bác thân mật nói: “Tổng Tư lệnh ra mặt trận, tướng quân tại ngoại, trao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định, rồi báo cáo sau”. Khi chia tay, Bác nhắc: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”. Lòng tin này là một trong những yếu tố quyết định đến chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch có quy mô lớn nhất từ ngày tổng khởi nghĩa đến năm 1954. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”. Đoàn quân Việt nam rầm rộ hành quân lên Tây Bắc, gặp núi phá đá làm đường, trèo đèo lội suối, vượt thác, phá ghềnh… tất cả hừng hực một khí thế quyết chiến quyết thắng.

Với sức người, sức của được huy động tối đa như vậy, Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ ghánh tránh nhiệm hết sức nặng nề khi đề ra những chủ trương, phương châm tác chiến để định hướng cuộc chiến đấu của dân tộc.  Một quyết định đúng sẽ giúp giành chiến thắng với cái giá phải trả thấp nhất. Một quyết định sai sẽ trở thành thảm họa, đặc biệt với những quyết định ở tầm chiến lược. Cuộc kháng chiến trường kỳ giành độc lập của dân tộc ta trong thế kỷ 20 đã chứng minh nhận định này, nhất là trong những quyết định cân não mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra.

Ngày 5/01/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và một bộ phận cơ quan chỉ huy lên đường đi Tây Bắc. Cùng đi có đồng chí Vi Quốc Thanh, trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc. Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ đã dừng chân tại ba địa điểm. Điểm dừng chân thứ nhất là ở Hang Thẳm Púa, Km15 đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ, trong thời gian 32 ngày (từ ngày 17/12/1953 - 17/01/1954). Tại đây, ngày 14/01/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ chỉ huy chiến dịch phổ biến lệnh tác chiến bí mật với phương án "đánh nhanh, thắng nhanh" và dự định nổ súng vào ngày 20/01/1954. Với phương án này mục tiêu là tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ trong 3 đêm 2 ngày bằng tiến công ồ ạt đồng loạt, thọc sâu đã được Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương cùng Bộ Tổng tham mưu phê duyệt với sự nhất trí của đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc.  Đánh sớm vào thời điểm khi quân Pháp đứng chân chưa vững, chưa tập trung đủ lực lượng và củng cố công sự thì khả năng giành chiến thắng cao.

Bốn ngày sau khi phổ biến phương án “đánh nhanh, thắng nhanh”, Sở chỉ huy chiến dịch chuyển vào địa điểm mới tại Hang Huổi He, km55 đường Tuần Giáo - Điện Biên, trong thời gian 13 ngày (từ ngày 18/1/1954 đến 30/11954) cho gần mặt trận và các đơn vị để tiện chỉ huy. Để tạo bất ngờ cho địch và tranh thủ thời gian cho phương án đánh nhanh, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tổ chức cho chiến sỹ ta kéo pháo bằng tay vào mặt trận và thành lập Bộ chỉ huy kéo pháo do đồng chí Lê Trọng Tấn - Tư lệnh Đại đoàn 312 chỉ huy. Con đường kéo pháo khá dài, nằm trên địa hình hiểm trở nhiều dốc cao, vực sâu, sau 7 đêm, pháo vẫn chưa tới vị trí qui định. Thời gian nổ súng dự định ngày 20/1/1954, nay phải lùi lại 5 ngày đến ngày 25/1/1954. Chúng ta đã chưa lường hết những trở ngại khi dùng sức người kéo những khối thép nặng trên 2 tấn qua những dốc cao vực thẳm, nhiều cán bộ, chiến sỹ đã hy sinh để cứu pháo. Ngày 25/1/1954, thời gian dự định tấn công đã đến nhưng đã xuất hiện nguy cơ bị lộ và có thể địch đã nắm được, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định lùi lại 24 giờ, tức sang ngày 26/1/1954, để Đảng ủy họp bàn lại chủ trương.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Điện Biên Phủ

Thời gian tấn công liên tục phải lùi lại không phải là những gì quân dân ta mong đợi trong thời gian này của chiến dịch. Tất cả đang tập trung dồn tới mặt trận bằng cả trái tim nóng và ý chí nung nấu sục sôi theo khí thế của trận đánh, của sức mạnh ngày một dâng trào. Trên tuyến hậu phương tiếp viện, những thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến ngày đêm người phá đá mở đường với búa, cuốc, xẻng, người vai tải nặng đi bộ, thồ xe, trèo đèo lội suối hàng trăm cây số. Sát mặt trận là lực lượng quân chủ lực năm đại đoàn với 55.000 chiến sỹ sau 2 tháng chuẩn bị ròng rã ăn ngủ, lăn lộn với đèo dốc Tây Bắc vượt qua biết bao hiểm nguy: phá bom bằng tay không, lấy thân mình chèn pháo, trú ẩn dưới mưa bom từ máy bay địch, kéo pháo bằng tay vào trận địa… . Thế mà giữa chảo lửa Điện Biên Phủ ấy vẫn có một cái đầu lạnh. Vầng trán quấn đầy ngải cứu sau “10 ngày trăn trở và một đêm thức trắng” là một hình ảnh tuy giản dị mộc mạc nhưng nó chứa đựng sự vĩ đại của một Tổng tư lệnh luôn suy nghĩ cho vận mệnh đất nước. Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng nhắc nhở: “chiến trường ta hẹp, người của ta không nhiều, cho nên chỉ được thắng không được bại, vì bại thì hết vốn”, cùng với con mắt chiến thuật lão luyện của người cầm quân đã khiến Đại tướng đặt ra ba khó khăn ta chưa giải quyết được, làm cơ sở để thay đổi hoàn toàn phương châm tác chiến.

Sáng 26/1/1954, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định họp Đảng ủy mặt trận và ra nghị quyết thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, bóc dần từng lớp vỏ cứng của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ với sự chuẩn bị kỹ lưỡng hơn. Nhiều đồng chí tỏ ra bất ngờ với thay đổi này vì hầu hết các đồng chí trong cuộc họp đều đã đồng tình với kế hoạch tác chiến “đánh nhanh, thắng nhanh” và “nếu không đánh thì sau này khó mà đánh được”. Đại tướng hỏi: “nếu đánh có chắc thắng trăm phần trăm không?”, không ai có thể trả lời được. Cuối cùng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kết luận: “để đảm bảo nguyên tắc cao nhất là đánh chắc thắng, cần chuyển phương châm chiến dịch từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”. Nay quyết định hoãn cuộc tiến công. Ra lệnh cho toàn mặt trận lui về vị trí tập kết và kéo pháo ra. Công tác chính trị bảo đảm chấp hành triệt để mệnh lệnh lui quân như mệnh lệnh chiến đấu. hậu cần chuyển sang chuẩn bị theo phương châm mới”. Quyết định này sau khi trao đổi được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng hoàn toàn ủng hộ.

Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ diễn ra qua 55 ngày đêm khói lửa với bao trận đánh ác liệt, hào hùng của quân dân ta. Nhiều chiến sỹ đã ngã xuống để lá cờ “quyết chiến quyết thắng” tung bay trên lô cốt địch. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ dần bị bóp nghẹt cùng với đám lính đồn trú càng trở nên hoang mang sợ hãi đến cực độ và kết cục tất yếu không thể tránh khỏi vào thời khắc lịch sử  của ngày 7/5/1954. Tập đoàn cứ điểm hoàn toàn sụp đổ khi những người lính Việt Minh nhỏ bé phất lá cờ đỏ trên nóc hầm chỉ huy địch trong khi những binh lính Lê Dương kéo dài hàng cờ trắng vô tận.

Chiều ngày 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến. quyết thắng" tung bay trên nóc hầm De Castres

Với quyết tâm của toàn dân tộc, với sự chỉ đạo kịp thời sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, và không thể phủ nhận tính chính xác của những quyết định có thể làm thay đổi cả lịch sử, quyết định của Đại tướng vào ngày 26/1/1954 là một trong những quyết định như vậy. nói về sự kiện này, 35 sau ngày chiến thắng trong cuốn Điện Biên Phủ, Điểm hẹn lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tâm sự: "Ngày hôm đó, tôi đã thực hiện được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình!".

Đánh giá về quyết định lịch sử này, Tướng Lê Trọng Tấn, trong dịp kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên, nói: "Nếu không có quyết định chuyển phương châm ngày đó thì phần lớn chúng tôi sẽ không có mặt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ". Còn Tướng Vương Thừa Vũ nhận xét: "Nếu theo cách đánh cũ, thì cuộc kháng chiến chống Pháp có thể bị kéo dài thêm tới 10 năm".

Còn rất nhiều những sự vĩ đại nữa ẩn chứa trong con người giản dị này để các thế hệ người Việt sẽ còn nhớ về ông, lịch sử thế giới tiếp tục nhắc tên Đại tướng.

Kỷ niệm 60 năm ngày phát hành số đầu tiên, tờ TimeAsia (Thời báo châu Á) số đặc biệt giới thiệu danh sách các "Anh hùng châu Á", gồm các chính khách, nhân vật có ảnh hưởng lớn đến cục diện khu vực trong những năm nửa cuối của thế kỷ XX. Trong số những nhân vật được Time Asia giới thiệu có cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Theo TimeAsia thì Võ Nguyên Giáp là vị tướng tài ba, người lính số 1 của dân tộc Việt Nam, ông đã từng lãnh đạo quân đội Việt Nam làm nên nhiều chiến thắng lẫy lừng trong đó có cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử dài 57 ngày đêm, đập tan đội quân đế quốc hùng mạnh, tuyên cáo chấm dứt sự tồn tại của chủ nghĩa Đế quốc và tiếp theo là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 16 năm và kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, thống nhất vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam sau nhiều thập kỷ bị chia cắt.

Bách khoa toàn thư quân sự Bộ Quốc phòng Mỹ, xuất bản năm 1993 viết: "Tài thao lược của Tướng Giáp về chiến lược, chiến thuật và hậu cần được kết hợp nhuần nhuyễn với chính trị và ngoại giao... Sức mạnh hơn hẳn về kinh tế, tính ưu việt về công nghệ cùng với sức mạnh áp đảo về quân sự và hỏa lực khổng lồ của các quốc gia phương Tây đã phải khuất phục trước tài thao lược của một vị tướng từng một thời là thầy giáo dạy sử".

Tướng Mỹ Westmoreland thừa nhận: “Ông Giáp có tất cả những đức tính của một thống soái quân sự lớn, đó là sự quả đoán, tính kiên quyết, sức mạnh tinh thần, khả năng tập trung suy nghĩ và hành động, trí thông minh”.

Nhà sử học quân sự Mỹ Cecil Curay, trong tác phẩm Chiến thắng bằng mọi giá - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thiên tài của Việt Nam, sau khi điểm qua quá trình chỉ huy quân đội của vị tổng tư lệnh, đã nhận xét: “Trong suốt thời gian đó, ông không chỉ trở thành một huyền thoại mà có lẽ còn trở thành một thiên tài quân sự lớn nhất của thế kỷ 20 và một trong những thiên tài quân sự lớn nhất của tất cả các thời đại...

Ông Giáp là vị tướng duy nhất trong lịch sử hiện đại tiến hành chiến đấu chống kẻ thù từ thế vô cùng yếu, thiếu trang bị, thiếu nguồn tài chính, dù mới đầu trong tay chưa có quân, vậy mà vẫn liên tiếp đánh bại tàn quân của đế chế Nhật Bản, quân đội Pháp (một đế chế thực dân số 2) và quân đội Mỹ (một trong hai siêu cường thế giới)... Ông Giáp là chuyên gia hiện hữu vĩ đại nhất về chiến tranh nhân dân... là một vị tướng hậu cần vĩ đại của mọi thời đại”./.

Ảnh: Sưu tầm


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:



Tin liên quan

     Bình luận


    Mã xác thực không đúng.
       Liên kết website
      Thống kê: 741.396
      Online: 110