Sở chỉ huy tiền phương của Tổng cục cung cấp hay còn gọi là Sở chỉ huy hậu cần trong bất cứ chiến dịch nào đều ở gần Bộ chỉ huy chiến dịch vừa đảm bảo công tác hậu cần cho cơ quan đầu não vừa nhận mệnh lệnh về công tác hậu cần kịp thời chỉ đạo ra các đơn vị ngoài tiền tuyến đảm bảo sức khỏe cho bộ đội.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Sở chỉ huy của quân đội ta hai lần chuyển địa điểm, một lần từ Hang Thẩm Púa (Tuần Giáo) về Hang Huổi He (Nà Tấu) và lần thứ hai là chuyển đến Mường Phăng, do đó các cơ quan tham mưu trong đó Sở chỉ huy hậu cần cũng hai lần chuyển địa điểm cho phù hợp với tình hình chiến dịch. Hiện nay còn lại hai dấu tích là địa điểm đóng quân của Sở chỉ huy hậu cần tại Nà Tấu và Mường Phăng.
Sau sự thất bại của kế hoạch Navarre, Điện Biên Phủ trở thành trận địa quyết chiến của Pháp để tiêu diệt đối phương bằng cách xây dựng tại đây một căn cứ quân sự khổng lồ được đánh giá là "mạnh nhất Đông Dương" với 49 cứ điểm phòng ngự liên hoàn và vô số trang thiết bị, vũ khí quân sự hiện đại. Về phía Việt Minh, nhận thấy tình hình chiến sự ngày càng cấp bách, đã chấp nhận chiến đấu và triển khai lực lượng về mọi mặt, dồn sức cho Điện Biên Phủ làm cuộc tổng tiến công cuối cùng với Pháp trong một thế trận "Chỉ được thắng, không được bại".
Phương án "Đánh chắc, tiến chắc" được lựa chọn sau khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp cân nhắc những mạnh yếu của quân đội ta. Thực tế cho thấy đối với một chiến dịch với quy mô lớn, dài ngày lại xa các căn cứ hậu phương như chiến dịch Điện Biên Phủ thì việc đảm bảo được hậu cần là một thách thức vô cùng lớn. Đảm bảo được hậu cần ta đã thắng được một bước trong điều kiện Pháp huy động tôi đa máy bay chuyên chở, mỗi ngày vận chuyển hàng tấn hàng hóa xuống lòng chảo Điện Biên Phủ nuôi và dự trữ cho tập đoàn cứ điểm. Hội đồng Cung cấp mặt trận được thành lập; ở trung ương do đồng chí Phạm Văn Đồng (lúc ấy là Phó Thủ tướng) làm chủ tịch và đồng chí Nguyễn Văn Trân, Tổng thanh tra Chính phủ, làm phó thủ tịch. Không riêng ở trung ương mà các địa phương cũng thành lập Hội đồng Cung cấp mặt trận của liên khu, của tỉnh do đồng chí chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến trực tiếp chịu trách nhiệm.
Một cuộc cách mạng về hậu cần đã được tiến hành trong đó một mặt động viên nhân dân Tây Bắc ra sức tiết kiệm để đóng góp tại chỗ, mặt khác đẩy mạnh làm đường, sửa đường, huy động tối đa các phương tiện vận chuyển thô sơ như ngựa thồ, xe đạp thồ, thuyền mảng... Nguồn chính, ta đã tổng động viên một khối lượng khổng lồ lương thực, thực phẩm, thuốc men, đạn dược, vũ khí, … từ vùng do Việt Minh kiểm soát chuyển lên Điện Biên Phủ một cách nhanh chóng, liên tục. Số lượng người vận chuyển nhiều hơn quân đội, gấp nhiều lần quân đội và được tổ chức, biên chế như quân đội. Lần đầu tiên ta chứng kiến tinh thần yêu nước được thể hiện rõ nét đến vậy. Dân công tuyệt nhiên không dám động vào hạt gạo chở lên Điện Biên Phủ cho dù phải ăn rau dại, măng rừng hay nằm trên những tấm ni lông trải dưới đất, không dám ngủ hết giấc. Chiếc xe đạp do chính người Pháp sản xuất trở thành phương tiện vận chuyển chủ yếu, mỗi xe chở được từ 150kg đến 200kg, dân công Ma Văn Thắng ở Phú Thọ nâng tải trọng chiếc xe của mình lên 337kg, trở thành người đạt năng xuất cao nhất chiến dịch; tên gọi “xe đạp thồ” cũng từ sự kiện này mà ra. Máy bay trinh sát của Pháp liên tục dội bom xuống những tuyến đường, ngăn chặn bước tiến của quân ta, đau thương không ít nhưng chưa bao giờ con đường lên Điện Biên Phủ bị cắt đứt.
Hàng trăm km đường cũ được sửa, nhiều tuyến đường mới được mở vừa đủ để đi bộ hoặc vận chuyển bằng ô tô theo yêu cầu. Trong chiến dịch này, hầu hết xe vận tải của ta đã được đưa ra mặt trận, 628 xe phục vụ liên tục suốt ngày đêm. Bộ đội lái xe tùy điều kiện mà cho xe chạy không đèn trong đêm hoặc lợi dụng sương mù chạy ban ngày, vựơt qua bom chờ nổ, cơ động nhanh một khối lượng lớn lương thực, đạn dược. Công tác Quân y vốn rất cần thiết ở các chiến trường, đã thực hiện khẩu hiệu: “Mỗi ô tô là một bệnh xá lưu động”, chiến sĩ quân y phối hợp với lái xe lót lá, lót rơm, làm cáng để vận chuyển thương binh về phía sau một cách an toàn. Các thầy thuốc nổi tiếng như Bác sĩ - Bộ trưởng Bộ Y tế Vũ Đình Tụng, Bác sĩ - Thứ trưởng Bộ y tế Tôn Thất Tùng cũng tham gia chiến dịch và trực tiếp phẫu thuật cho thương binh ngay tại mặt trận. Đặc biệt, các Đội quân y Trung đoàn, tiểu đoàn đã bám sát trận địa, xây dựng các trạm quân y nhỏ trong lòng đất để cứu chữa thương bệnh binh.
Ngày 13/3/1954, Quân đội ta nổ súng tấn công vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu trận công kiên lớn nhất từ trước đến nay. 56 ngày đêm ác liệt với ba đợt tấn công, bóc từng lớp vỏ cứng của Tập đoàn cứ điểm đã khiến hơn 16.000 lính Pháp bị loại khỏi vòng chiến đấu cùng toàn bộ “cơ ngơi” của Tập đoàn cứ điểm hoàn toàn thuộc về Việt Minh. Để lá cờ đỏ sao vàng tung bay phất phới trên nóc hầm tên tướng bại trận De Castries vào chiều ngày 07/5/1954, quân Việt Minh đã phải chiến đấu, hi sinh không biết mệt mỏi. Có những cao điểm ta đã phải giành giật với địch 39 ngày đêm; có những trận đánh ta hi sinh rất nhiều; có đơn vị chỉ còn một người vẫn kiên quyết bám trận địa.
Trong 210 ngày (từ tháng 11/1953 đến tháng 5/1954) lực lượng và đảm bảo hậu cần của ta phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ như sau:
- Quân số hậu cần chiến dịch: 3.168 người phân bố trong 7 đội điều trị, 1 đội vận tải ô tô 446 xe, binh trạm 18 và trạm điều chỉnh giao thông, kho quân nhu, quân khí.
- Lực lượng tăng cường có: 4 tiểu đoàn công binh sửa đường, 2 đại đội thông tin, 2 tiểu đoàn 37mm (24 khẩu) và đại đội 12,7mm.
- Lực lượng dân công: 261.453 người với 3 triệu ngày công, 20.991 xe đạp thồ, 11.800 bè mảng, 500 ngựa thồ.
- Lương thực, thực phẩm cung cấp cho chiến dịch: 25.056 tấn gạo, 907 tấn thịt, 917 tấn các loại thực phẩm khác, 1860 lít dầu an và 280kg mỡ.
- Quân trang, quân y: 71 tấn quân trang, 1783 tấn xăng dầu; 55 tấn thuốc và dụng cụ quân y. Điều trị cho 10.130 thương binh và bệnh binh (chưa kể số thương binh của địch).
- Về vũ khí, đạn dược: Hơn 3 triệu viên đạn các loại, 96.480 quả lựu đạn, 27,5 tấn thuốc nổ, 4950 chiếc cuốc, 8700 chiếc xẻng, 2920 con dao.
Tổng khối lượng cung cấp cho chiến dịch là 30.759 tấn, trong đó tiêu thụ hết 19.989 tấn. Khối lượng vận chuyển trong chiến dịch Điện Biên Phủ là 4.450.000tấn/km, gấp 36 lần khối lượng vận chuyển trong chiến dịch Biên giới. Làm mới 89km và sửa chữa, củng cố 500km đường. Đó chính là những kỳ công về hậu cần mà ta làm được, điều kỳ diệu chưa từng có trong lịch sử đấu tranh của quân và dân ta.
Trong chiến dịch này Sở chỉ huy hậu cần đóng tại Nà Tấu trong 13 ngày, từ ngày 18/01 đến 30/01/1954. Đến nay, di tích Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu vẫn chưa được quy hoạch, trùng tu, tôn tạo. Những gì còn lại chỉ còn lại một bãi đất trống và tấm bia đánh dấu mốc và những dấu tích khác hầu như không rõ ràng. Tại Mường Phăng, theo yêu cầu của chiến dịch, Sở chỉ huy hậu cần ở gần Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Lai Châu, phía ngoài rừng Mường Phăng trong 105 ngày từ 31/01 đến 15/5/1954. Hiện nay tại di tích này đã được xây dựng bia di tích với quy mô hoành tráng, trở thành điểm tham quan du lịch bên cạnh Sở chỉ huy trong rừng Mường Phăng cách đó không xa./.