Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh những chiến công vang dội của bộ đội chủ lực, sự hy sinh thầm lặng của dân công hỏa tuyến, lực lượng Quân y, còn có một lực lượng đặc biệt góp phần tạo nên thắng lợi chung đó chính là những chiến sĩ văn công, những người mang lời ca, tiếng hát đến giữa chiến trường để cổ vũ tinh thần chiến đấu.

Ngày 15/3/1951, tại căn cứ kháng chiến Việt Bắc, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định thành lập Tổng đội Văn công thuộc Cục Tuyên huấn. Đây là đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam và nước ta. Tổng đội trở thành minh chứng cho chủ trương đúng đắn của Đảng và Bác Hồ: coi văn hóa - nghệ thuật là “vũ khí đặc biệt” phục vụ bộ đội, động viên Nhân dân và gây dựng phong trào văn nghệ trong toàn quân. Đây chính là tiền đề để lực lượng văn công đồng hành trong các chiến dịch lớn, đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ 1953 - 1954.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đoàn văn công không chỉ gồm một nhóm đơn lẻ mà là lực lượng trải rộng trên khắp các đại đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam. Thành phần của các đoàn văn công rất đa dạng: nhiều người vốn là diễn viên, nhạc công được đào tạo bài bản; cũng có những người chỉ mới làm quen với ca múa nhạc trong thời gian ngắn nhưng vẫn hăng hái lên đường tham gia phục vụ chiến dịch. Phần lớn họ còn rất trẻ, chỉ mười tám, đôi mươi, đến từ nhiều miền quê khác nhau, mang theo tiếng đàn, lời ca, khát vọng về độc lập và tự do, góp phần tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn cho quân và dân ta trong những ngày tháng khốc liệt của chiến trường Điện Biên Phủ.

Họ vượt hàng trăm cây số đường rừng núi hiểm trở, đi bộ mang theo đàn, trống, khăn múa… trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, giá rét của Tây Bắc. Thế nhưng, bất chấp mọi khó khăn, đoàn văn công vẫn kiên trì tổ chức các buổi biểu diễn để phục vụ bộ đội, dân công hỏa tuyến, thương binh. Họ tổ chức biểu diễn ca nhạc, múa, tiểu phẩm, ngâm thơ, kể chuyện ngay giữa chiến hào, lán trại, thậm chí trong hầm trú ẩn, bên cạnh những khẩu pháo 105mm…

Những ca khúc nổi tiếng như “Hò kéo pháo” của nhạc sĩ Hoàng Vân, “Qua miền Tây Bắc” của nhạc sĩ Nguyễn Thành, “Trên đồi Him Lam” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận đã trở thành nguồn động viên tinh thần to lớn, giúp chiến sĩ vượt qua mệt mỏi, củng cố ý chí chiến đấu.

Sau những giờ phút chiến đấu ác liệt, khi tiếng súng dần lắng xuống và chiến trường Điện Biên Phủ tạm thời chìm trong tĩnh lặng, các chiến sĩ trở về những căn hầm pháo dã chiến, quây quần bên nhau trong giây phút nghỉ ngơi ngắn ngủi. Gương mặt họ lấm lem bùn đất và khói súng, thân thể mệt mỏi sau những trận chiến cam go nhưng trong ánh mắt vẫn ánh lên niềm tin và khát vọng chiến thắng mãnh liệt.

Trong khoảnh khắc yên bình hiếm hoi ấy, những nữ văn công xuất hiện với trang phục truyền thống, tay cầm những chiếc bật lửa, cùng nhau trình diễn điệu múa cổ truyền. Những ngọn lửa nhỏ lung linh giữa không gian tĩnh lặng, hòa cùng tiếng nhạc và tiếng trống đã tạo nên một khung cảnh nghệ thuật đầy cảm xúc. Điệu múa không chỉ là biểu tượng của nét văn hóa đặc trưng vùng cao mà còn trở thành nguồn cổ vũ tinh thần to lớn cho bộ đội và dân công ngay giữa chiến trường Điện Biên Phủ.

Không chỉ dừng lại ở hoạt động biểu diễn, các nghệ sĩ văn công còn sống, lao động và chiến đấu như những người lính thực thụ. Họ tham gia đào hầm, gùi gạo, chia sẻ những bữa ăn đạm bạc và những đêm ngủ rừng giá lạnh. Nhiều người trong số họ đã bị thương, đổ máu, thậm chí hy sinh khi mang trong tim một lý tưởng cao đẹp đó là phục vụ Tổ quốc bằng nghệ thuật.

Giữa khung cảnh chiến tranh khốc liệt, hình ảnh người văn công với cây đàn mandolin đeo bên vai, đôi dép cao su mòn gót và nụ cười rạng rỡ giữa khói lửa đã trở thành biểu tượng sinh động. Họ là minh chứng cho sức mạnh của nghệ thuật cách mạng, một thứ vũ khí tinh thần góp phần quan trọng vào chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử.

Trong không khí khốc liệt của chiến trường, các nữ văn công trong đó có nữ dân công Ngô Thị Ngọc Diệp còn được giao một nhiệm vụ đặc biệt đó là thêu lá cờ “Quyết chiến, Quyết thắng”. Việc giao trọng trách này thể hiện niềm tin và sự trân trọng sâu sắc của cấp chỉ huy đối với họ.

Để hoàn thành là cờ, các nữ văn công phải tìm kiếm vải từ nhiều nguồn khác nhau, chắp vá lại. Quá trình thực hiện thêu không hề đơn giản, đặc biệt là việc cắt và thêu dòng chữ “Quyết chiến Quyết thắng” sao cho thẳng hàng, cân đối và nổi bật. Đội văn công lấy lá cờ múa mừng chiến thắng để làm nền, còn ngôi sao và dòng chữ “Quyết chiến Quyết thắng” họ phải dùng thuốc sốt rét giã nhỏ hoà vào với nước để nhuộm băng cá nhân thành màu vàng rồi tước những sợi dọc ra để làm chỉ thêu. Phần tua rua của lá cờ được tận dụng từ ruột dây dù của quân đội Pháp. Tất cả được hoàn thiện trong điều kiện thiếu thốn, dưới ánh đèn dầu leo lét, giữa tiếng bom đạn vọng về từ xa.

17 giờ 30 phút ngày 07/5/1954, lá cờ đỏ sao vàng cùng dòng chữ “Quyết chiến, Quyết thắng” đã tung bay trên nóc hầm chỉ huy của Tướng De Castries, đó là biểu tượng chiến thắng quân sự, chiến thắng của lòng yêu nước và ý chí dân tộc, trong đó có dấu ấn của những người nghệ sĩ - chiến sĩ thầm lặng.

Lá cờ "Quyết chiến, Quyết thắng" tung bay trên nóc hầm Tướng De Castries vào chiều hè tháng 5 lịch sử năm 1954

Ngoài nhiệm vụ biểu diễn và phục vụ trong đơn vị, các đoàn văn công còn tham gia công tác địch vận, dùng lời ca, tiếng hát kêu gọi binh sĩ đối phương ra hàng và công tác dân vận, mang chương trình văn nghệ phục vụ đồng bào vùng mới giải phóng. Chính họ đã góp phần làm nên một Điện Biên Phủ huyền thoại, một chiến thắng toàn diện cả về quân sự, chính trị và văn hóa tinh thần.

Trong dịp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, những vị khách đặc biệt trở lại mảnh đất lịch sử năm xưa. Đó là Trung tá, NSƯT Ngô Thị Ngọc Diệp - Nguyên là diễn viên của đội văn công Đại đoàn 308, là một trong những cô văn công được giao nhiệm vụ thêu lá cờ “Quyết chiến Quyết thắng” trong chiến dịch và bà Vũ Thị Lương - Nguyên chiến sĩ văn công Đại đoàn Công pháo 351. Các cô văn công ngày nào, nay đã ở tuổi ngoài tám mươi, chín mươi nhưng ký ức về những điệu múa năm xưa, những câu hát từng vang vọng trong đêm hành quân năm ấy vẫn còn mãi.

Tại Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ, Trung tá, NSƯT Ngô Thị Ngọc Diệp và bà Vũ Thị Lương lặng nhìn từng hiện vật. Trong phút giây bồi hồi ấy, Trung tá, NSƯT Ngọc Diệp và bà Lương đã cùng nhau biểu diễn lại một điệu múa năm xưa, điệu múa mà các bà từng thể hiện giữa chiến trường Điện Biên Phủ. Điệu múa chậm rãi nhưng tràn đầy cảm xúc của hai người nghệ sĩ đã khiến tất cả những người chứng kiến lặng đi. Đó không chỉ là điệu múa của hoài niệm, mà là sự kết nối thiêng liêng giữa quá khứ và hiện tại, giữa nghệ thuật và lịch sử, giữa những người đã chiến đấu năm xưa và thế hệ hôm nay.

Trung tá, NSƯT Ngô Thị Ngọc Diệp chia sẻ: Khi trở lại Điện Biên hôm nay, đứng giữa không gian của Bảo tàng, tôi như được sống lại những năm tháng tuổi trẻ của mình. Từng bức ảnh, từng hiện vật nơi đây đều gợi lại ký ức về những ngày cùng đồng đội. Điệu múa mà chúng tôi vừa biểu diễn lại chính là điệu múa năm xưa, điệu múa của niềm tin, của khát vọng chiến thắng. Chúng tôi rất tự hào về chiến dịch Điện Biên Phủ, một chiến dịch lịch sử, một chiến thắng hùng vĩ của Quân đội và dân tộc ta.

Trung tá, NSƯT Ngô Thị Ngọc Diệp và bà Vũ Thị Lương tham quan bức tranh Panorama "Chiến dịch Điện Biên Phủ

Những lời nói giản dị ấy khiến nhiều người xúc động. Hơn bảy thập kỷ đã trôi qua, nhưng ngọn lửa từ những người văn công năm ấy vẫn chưa bao giờ tắt. Họ mang theo tuổi xuân, tiếng hát, điệu múa và cả trái tim chan chứa niềm tin vào độc lập, tự do của dân tộc. Giờ đây, khi mái tóc đã bạc, họ vẫn tiếp tục lan tỏa tinh thần ấy tinh thần của người chiến sĩ - nghệ sĩ, của một thế hệ đã sống và cống hiến trọn vẹn cho Tổ quốc.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của sức mạnh quân sự, chính trị, đồng thời cũng là chiến thắng của văn hóa, tinh thần. Trong chiến công chung ấy, những chiến sĩ văn công đã để lại dấu ấn đặc biệt, lặng lẽ mà bền sâu. Họ đã cống hiến tuổi xuân, tài năng và cả máu xương để thắp sáng niềm tin, hun đúc ý chí quyết thắng cho quân và dân ta. Nhắc về họ hôm nay chính là khẳng định một chân lý: văn hóa luôn đồng hành cùng dân tộc trong mọi chặng đường lịch sử, góp phần làm nên những trang sử vàng chói lọi.


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:



Tin liên quan

     Bình luận


    Mã xác thực không đúng.
       Liên kết website
      Thống kê: 789.576
      Online: 67