"Lần đầu tiên các dàn hỏa tiễn “Stalin” - những vũ khí rất có hiệu lực, bắn phá tất cả các cứ điểm của chúng ta. Việt Minh phát động những đợt công kích cuối cùng của họ vào giữa buổi. De Castries báo cáo trong toàn bộ trận địa của ông ta. Tập đoàn cứ điểm đã sụp đổ trước lúc hoàng hôn...".
(Trích: “Đông Dương trong cơn lốc” của Tướng Henri-Eugène Ely, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Pháp)
Trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Tiểu đoàn Hỏa tiễn H6 đầu tiên mang phiên hiệu 224 thuộc Trung đoàn 675, Đại đoàn 351, được thành lập vào ngày 22/4/1954, tại một khu rừng già thuộc huyện Tuần Giáo. Tiểu đoàn gồm hai đại đội, mỗi đại đội sử dụng 6 khẩu Hỏa tiễn H6.
Trong đợt tiến công thứ 3 của Chiến dịch Điện Biên Phủ (từ ngày 01 đến ngày 7/5/1954), Theo lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch, tiểu đoàn Hoả tiễn H6 (phiên hiệu D224/E675/F351) lập tức chuyển sang đội hình chiến đấu. Hỏa tiễn H6 là loại pháo nòng trơn, không rãnh xoắn bắn theo nguyên lý phản lực, cỡ nòng là 102mm (101,6mm, hay 4 inch), đạn nặng 20kg, kể cả phần động cơ. Loại pháo này có tính năng kỹ thuật ưu việt: gọn nhẹ, cơ động, dễ thao tác, có thể phóng đi một lượng đạn tương đối lớn trong một thời gian ngắn. Mỗi viên đạn khi nổ văng ra hàng trăm mảnh, với sức nóng trên 1.000 độ C, tầm sát thương lớn, rất thích hợp với việc sát thương sinh lực lộ như lực lượng phản kích, trận địa pháo địch đang bắn trong công sự không có nắp. Theo chủ trương của Bộ Chỉ huy chiến dịch, đây là hỏa lực dự bị chiến dịch, chỉ sử dụng vào cuối cuộc tổng tiến công để kết thúc chiến dịch.
Theo chia sẻ Đại tá Cao Sơn - Nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Hỏa tiễn H6 ở Điện Biên Phủ: Bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi (Cao Sơn) là tiểu đoàn phó pháo 105mm thuộc Trung đoàn 45, đơn vị đã tham gia đánh Him Lam, Độc Lập và một số cứ điểm khác. Trung tuần tháng 4/1954, tôi nhận được lệnh đi làm nhiệm vụ mới. Địa điểm tập kết là Tuần Giáo, cách Điện Biên Phủ 80km.Chiều hôm ấy, đồng chí Doãn Tuế - Tham mưu trưởng Đại đoàn Công pháo 351 xuống gặp gỡ chúng tôi giao nhiệm vụ, động viên và giao luôn quyết định của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh thành lập Tiểu đoàn Hoả tiễn mang phiên hiệu 224. Tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì quân ta có thêm hỏa lực mới. Lo vì nhiệm vụ mới nặng nề, thời gian huấn luyện lại ngắn có 7 ngày, liệu có đạt yêu cầu mong muốn của cấp trên hay không. Đọc được suy tư trên gương mặt của chúng tôi đồng chí Doãn Tuế động viên: “Mình đã dự kiến nhân sự: Cao Sơn, Tiểu đoàn trưởng; Hoàng Khoát, Chính trị viên; Xuân Sâm, Tiểu đoàn phó; Lê Thuận, chính trị viên phó tiểu đoàn. Nhân sự này mình đã trình anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp), được anh Văn ký duyệt rồi. Yên tâm đi, mình sẽ tạo mọi điều kiện giúp đỡ các cậu hoàn thành nhiệm vụ.
Hôm họp bàn tên đơn vị, phiên hiệu đơn vị cũng vui đáo để. Anh Thanh Tâm (Phó chính ủy) nêu ý kiến: “Địch có máy bay Bê-van-hxít (B26), ta cũng gọi hoả tiễn là Bê-vanh-xít cho bọn chúng hoang mang”. Anh Văn cười rất độ lượng bảo: “Hoả tiễn của ta có 6 nòng một khẩu đội. Thế thì ta nên gọi là Hát xít (six là 6). H6 là hoả tiễn 6 nòng cho giản dị dễ hiểu.
Về phiên hiệu đơn vị cũng vậy. Tiểu đoàn H6 được thành lập ngày 22/4/1954 nên lấy luôn ngày và tháng 224 cho dễ nhớ”.
Đây là đơn vị hỏa tiễn đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Vị trí trận địa tiểu đoàn đặt bên đường 41 trong một bản làng dân đã sơ tán hết tại Tuần Giáo. Đài quan sát tiểu đoàn đặt trên một điểm cao. Đồng chí Doãn Tuế - Tham mưu trưởng Đại đoàn 351 được phân công đi cùng Tiểu đoàn Hoả tiễn H6 để chỉ đạo chiến đấu suốt chiến dịch. Đồng chí có điện thoại riêng nhận lệnh trực tiếp của Bộ chỉ huy chiến dịch.
Hỏa tiễn H6 là loại pháo hoàn toàn mới với bộ đội ta. Vì vậy, việc huấn luyện thao tác, làm chủ kỹ thuật để có thể sử dụng đã và đang đặt ra thử thách cho mỗi cán bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn, nhất là chỉ trong một thời gian ngắn, khi ngày bắt đầu cuộc tổng công kích chỉ còn có 8 ngày (01/5/1954).
Đợt huấn luyện Tiểu đoàn chia làm 2 bộ phận riêng rẽ: Bộ phận đài gồm Tiểu đoàn trưởng chỉ huy, các chiến sĩ trinh sát, kế toán, thông tin, thì học về chuyên môn nghiệp vụ. Bộ phận thứ 2 là bộ phận trận địa gồm các Tiểu đoàn phó, các Đại đội trưởng, Đại đội phó, các Trung đội trưởng và các pháo thủ thì chủ yếu học về thao tác các Khẩu đội.
Chia sẻ về thời gian luyện tập, đồng chí Ca Sơn từng nói: Về thời gian luyện tập chỉ có một tuần lễ, vì không có thời gian để học toàn diện, đành phải học tắt theo chức trách của từng người. Cán bộ cấp trưởng thì học bài 4 về chiến thuật (xác định mục tiêu, phương pháp bắn bao bọc mục tiêu...), cấp phó thì học thao tác kỹ thuật bắn báo, đồng thời phụ trách trận địa. Các pháo thủ tập trung chủ yếu vào khoa học kỹ thuật sử dụng binh khí để đưa viên đạn đến đúng mục tiêu đã được chỉ định, học kỹ thuật tháo lắp ngòi nổ, bảo quản... Sau một tuần lễ, anh em say mê học ngày học đêm đến 12-14 giờ/ngày, “vợ mới cưới mà”! Đến ngày cuối cùng, được phép cấp trên tôi cho bắn thử một khẩu đội. Một loạt cả 6 quả đạn đều trúng mục tiêu. Cán bộ, chiến sĩ ôm nhau mừng vui đến chảy nước mắt.
Với quyết tâm, lòng say mê học tập và khí thế háo hức lập công, chỉ sau hơn một tuần lễ (từ 24/4 đến 30/4/1954), cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn đã hoàn thành chương trình huấn luyện cấp tốc và sử dụng tương đối thành thạo loại hỏa tiễn này.
Sáng sớm ngày 01/5/1954, đồng chí Tham mưu trưởng Đại đoàn truyền đạt mệnh lệnh chiến đấu của Bộ chỉ huy mặt trận như sau: “ngày 1/5 đợt 3 chiến dịch bắt đầu. Tiểu đoàn H6 lập tức phải chuyển sang đội hình chiến đấu”. Mục tiêu bắn của Tiểu đoàn là: Sở chỉ huy địch ở Trung tâm Mường Thanh; hai trận địa pháo của địch còn hoạt động được ở Mường Thanh, và lực lượng phản kích của địch ở đầu cầu Mường Thanh.
Theo lệnh cấp trên, đến 17 giờ chiều ngày 05/5/1954, tiểu đoàn phải hoàn thiện công tác chuẩn bị như: Công sự, bảo quản pháo, đạn, lắp ráp ngòi nổ... Quá trình triển khai nhiệm vụ nhanh chóng và bí mật. Đến ngày 04/5, lợi dụng lúc sương mù, toàn tiểu đoàn đã vào vị trí tập kết, chiếm lĩnh trận địa. Các trận địa đều được bố trí trên đồi cao để có thể bắn thẳng vào khu trung tâm Mường Thanh ở cự ly hơn 5000m.
Chiều ngày 05/5/1954, tiểu đoàn đã tổ chức bắn thử. Để đảm bảo bí mật, khi bắn thử mục tiêu nào đều có pháo 105mm của Trung đoàn 45 bắn kèm theo để nghi binh, khiến quân Pháp không thể phát hiện. Từng đại đội bắn thử vào một trong hai trận địa pháo của Pháp ở Mường Thanh, mỗi khẩu đội chỉ được bắn 1 viên đạn 1 nòng vào từng mục tiêu.
Đêm 06/5/1954, theo mệnh lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch, Tiểu đoàn Hoả tiễn H6 đã bắn cấp tập hỏa lực vào Sở chỉ huy Tập đoàn cứ điểm ở trung tâm Mường Thanh. Lần đầu tiên xuất trận, Hoã tiễn H6 đã phát huy uy lực với tiếng gió rít ầm ầm và chuỗi đạn bắn dồn dập, liên tục dường như không dứt vào các mục tiêu khiến quân Pháp vô cùng sợ hãi và hoảng loạn, ta áp chế các trận địa pháo của Pháp.
Từ 19 giờ 30 phút ngày 06/5 đến 24 giờ 30 ngày 07/5/1954, toàn Tiểu đoàn đã tiến hành bắn 3 đợt với tổng cộng 618 viên đạn vào các mục tiêu đã được xác định, góp phần nhanh chóng làm cho quân Pháp suy sụp về tinh thần, tê liệt ý chí chiến đấu.
Sáng sớm ngày 7/5/1954, Tiểu đoàn được phổ biến thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp như sau: “hôm nay địch sẽ ra sức đối phó, tập trung lực lượng pháo kích và oanh tạc. Ta phải tích cực, cương quyết, bền bỉ đánh bại đợt phản kích cuối cùng của địch”.
Đến 9 giờ 30 phút, Tiểu đoàn được lệnh bắn 2 loạt đạn (144 viên) vào khu vực Mường Thanh trong đó có cả 3 mục tiêu cấp trên đã chỉ định. Tổng sau 5 đợt bắn 762 viên đạn được phóng đi, cả một cột lửa khổng lồ đã bao trùm toàn bộ khu vực mục tiêu.
Chiều 07/5/1954, lá cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm của Tướng De Castries. Sau khi bị bắt, một số tù binh khai rằng: Đã không thể chịu nổi độ nóng khủng khiếp của đạn hỏa tiễn và vô cùng khiếp đảm khi nghe tiếng rít gió của hỏa tiễn H6 khi bay đến mục tiêu - như ngày tận thế đang đến.
Ngay tối ngày 07/5, theo lệnh của cấp trên, Tiểu đoàn hỏa tiễn H6 đã lập tức tiến hành rút khỏi trận địa, trở về vùng hậu cứ của Đại đoàn 351 ở Tuyên Quang nhằm giữ bí mật về loại vũ khí này. Tiểu đoàn cũng không tham gia vào buổi Lễ duyệt binh mừng chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam vào ngày 13/5/1954 tại khu rừng Mường Phăng.
Như vậy lực lượng Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam trong đó có Tiểu đoàn H6 đã quả cảm, mưu trí, vừa chiến đấu vừa giữ bí mật trong quá trình tổ chức xây dựng lực lượng, đã giáng những đòn sấm sét vào các nơi trọng yếu của quân Pháp và chi viện đắc lực cho các Đại đoàn bộ binh chiến đấu dẫn đến thắng lợi của toàn chiến dịch.
Ngày nay, khi đến với Điện Biên, du khách hãy ghé thăm Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ để tận mắt chiêm ngưỡng, tìm hiểu về sức mạnh và vai trò của những vũ khí từng làm nên bất ngờ lớn cho Quân đội Pháp trong đó có Hỏa tiễn H6. Đồng thời, du khách đừng bỏ lỡ Di tích trận địa pháo H6 (hay còn gọi là hỏa tiễn Kachiusa) tại Bản Huổi Lơi, xã Thanh Minh, thành phố Điện Biên Phủ (nằm trên tuyến đường quốc lộ 279 đoạn đầu thành phố) để cùng tìm hiểu những điều đặc biệt đến từ vũ khí hạng nặng mang tên một bài hát quen thuộc Kachiusa của nước Nga (Liên Xô cũ).