Lịch sử dân tộc Việt Nam là quá trình dựng nước và giữ nước đầy gian khổ, hy sinh, nhưng cũng vô cùng vẻ vang. Từ khi có Đảng lãnh đạo, dân tộc Việt Nam đã lập nên biết bao chiến công hiển hách trong cuộc đấu tranh chống Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Cách đây 74 năm, vào ngày 19/12/1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”.
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi của non sông đất nước, là lời hịch cứu quốc, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào dân tộc, truyền thống anh hùng, bất khuất, kiên cường của nhân dân Việt Nam; thôi thúc cả nước sục sôi đứng lên chiến đấu, vì độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã phải đương đầu với thù trong, giặc ngoài, giặc đói, giặc dốt hoành hành, khó khăn chồng chất, tình thế đất nước như “Ngàn cân treo sợi tóc”. Trong tình cảnh đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhạy bén, sáng suốt, bình tĩnh chèo lái con thuyền Cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm nguy, từng bước tiến lên, đứng vững trên nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đảng ta đã đề ra sách lược ngoại giao mềm dẻo “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” linh hoạt, phù hợp với từng thời điểm lịch sử nhằm phân hóa kẻ thù, loại trừ từng bước các thế lực thù địch, phản động, tranh thủ thời gian để củng cố và phát triển lực lượng cách mạng.
Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp được sự tiếp tay của các nước đế quốc đồng minh đã trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Chúng đơn phương xóa bỏ mọi cam kết, không thi hành Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946, tăng cường các hoạt động quân sự, phá hoại nền hòa bình của nhân dân ta. Tháng 11/1946, Thực dân Pháp chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn, chính thức gây ra cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, Thực dân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn phá nhiều khu phố tàn sát nhân dân, đưa quân chiếm một số trụ sở cách mạng. Đặc biệt, vào ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp đã liên tiếp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải phá bỏ công sự trong thành phố, giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng. Trước âm mưu, hành động xâm lược của Thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ độc lập, tự do cho nhân dân. Vào 20 giờ ngày 19/12/1946, quân ta đã bắn những loạt đại bác từ pháo đài Láng vào các mục tiêu của địch trong thành phố. Ngay đêm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân cả nước với ý chí “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” đã nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược.
Trải qua 60 ngày đêm chiến đấu kiên cường, anh dũng, sáng tạo, quân và dân Hà Nội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giam chân địch trong thành phố, làm tiêu hao nhiều sinh lực địch, bảo vệ an toàn cho cơ quan đầu não. Phối hợp với Thủ đô Hà Nội, quân và dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam, từ Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương… đến Thanh Hóa, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn… đã đồng loạt anh dũng đứng lên chống Thực dân Pháp xâm lược. Cuộc chiến đấu oanh liệt, sáng tạo của quân và dân cả nước trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã giáng một đòn mạnh mẽ vào ý chí xâm lược và chiến lược “Đánh nhanh, thắng nhanh” của Thực dân Pháp, tạo tiền đề vững chắc cho những thắng lợi tiếp theo của cuộc kháng chiến.
Trải qua 9 năm kháng chiến oanh liệt, quân và dân ta đã đánh bại kẻ thù xâm lược là Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ mà đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ, một trong những chiến công chói lọi nhất trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, là bản anh hùng ca của một cuộc chiến tranh nhân dân thần kỳ, xứng đáng được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mãi mãi là niềm tự hào của các thế hệ người Việt và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ có ý nghĩa lịch sử vĩ đại, buộc thực dân Pháp phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi vẻ vang của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”.
Hướng tới kỷ niệm 74 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến là dịp để chúng ta cùng nhau ôn lại và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc, quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. /.