Sau 12 ngày đêm chiến đấu, từ 08/12 đến 19/12/1953 ta đã cùng lúc giành được nhiều thắng lợi, uy hiếp địch ở Lai Châu, phá tan âm mưu rút lui về Điện Biên, tiêu diệt nhiều sinh lực địch và giải phóng được nhiều vùng đất đai, là tiền đề mở chiến dịch Điện Biên Phủ.
Đề án Đông Xuân 1953 - 1954 được Bộ Chính trị cho ý kiến và thông qua trong đó xác định Tây Bắc là hướng chính, tiến quân cả hướng Tây Nguyên và trung du và đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời ta sẽ phối hợp với lực lượng và quân tình nguyện lào giải phóng ngay tỉnh Phông Xa Lỳ ở Thượng Lào.
Trung tuần tháng 11/1953, Đại đoàn 316 hành quân lên Tây Bắc. Ngày 20/11/1953, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Trong 3 ngày, chúng đã ném khoảng 6 tiểu đoàn dù tương đương 4.500 lính xuống đây do cảm thấy Lai Châu và Thượng Lào bị uy hiếp. Ngày 26/11/1953, cơ quan tiền phương của Bộ lên đường đi chiến dịch Tây Bắc. Dự đoán quân địch sẽ tăng lên nhiều tiểu đoàn, ta lên kế hoạch hoạt động ở Tây Bắc sẽ chia làm hai đợt:
Đợt 1: 316 tiến hành đánh Lai Châu và kết thúc vào cuối tháng 1/1954. Sau đó, bộ đội nghỉ ngơi, chấn chỉnh một thời gian khoảng 20 ngày, tập trung đầy đủ lực lượng để đánh Điện Biên Phủ.
Đợt 2: Tiến công Điện Biên Phủ. Thời gian đánh Điện Biên Phủ ước tính 45 ngày. Nếu địch không tăng cường thêm nhiều quân, có thể rút ngắn hơn. Chiến dịch sẽ kết thúc vào đầu tháng 4/1954. Đại bộ phận lực lượng sẽ rút, một bộ phận ở lại tiếp tục phát triển sang Lào cùng với bộ đội bạn uy hiếp Luông Phabăng.
Ngày 06/12/1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong Đông Xuân 1953 - 1954, đây sẽ là trận công kiên lớn nhất của quân đội ta có sự phối hợp của pháo binh và bộ binh, sau khi chuẩn bị kỹ càng có thể tiến hành theo phương án “Đánh chắc, tiến chắc”.
Cũng ngày 06/12, nhận thấy Lai Châu bị uy hiếp mạnh, Cogny đã ra lệnh cho các đơn vị gồm 3 tiểu đoàn rút khỏi Lai Châu. Thị xã lai Châu nằm trên ngã ba Sông Đà và Sông Nậm U, chia làm hai khu: khu phố và khu đồn cao, công sở. Theo như tài liệu ta thu được, kế hoạch sẽ được bắt đầu vào ngày 07/12, chỉ huy cấp cao và Âu - Phi rút bằng máy bay về Hà Nội và Điện Biên Phủ; đến ngày 12/12 bọn còn lại gồm 1 tiểu đoàn ngụy binh, 1 tiểu đoàn Thái và 23 đại đội sẽ theo đường núi phía Tây từ Lai Châu về Điện Biên Phủ, ngày 18/12 sẽ hoàn tất việc di chuyển. Để yểm hộ cho cuộc rút lui này, địch dùng một lực lượng gồm 6 tiểu đoàn do tên Guil-lemit chỉ huy đóng dọc đường 41 để ngăn cản cuộc tiến công của ta vào thị xã Lai Châu. Khi làm xong nhiệm vụ, lực lượng này cũng rút về Điện Biên Phủ.
Được tin địch rút Lai Châu, ngày 08/12 quân ta thuộc Đại đoàn 316 chia làm hai cánh quân cấp tốc hành quân truy kích địch. Cánh thứ nhất Đại đoàn trưởng Lê Quảng Ba và chính ủy Chu Huy Mân đưa Tiểu đoàn 439 của Trung đoàn 98, do phó chính ủy trung đoàn Phạm Quang Vinh trực tiếp phụ trách, tiến gấp lên phía Bắc theo đường 41 tiến thẳng về Thị xã Lai Châu; cánh thứ hai tiểu đoàn khác của 98 tạm dừng lại Tuần Giáo đề phòng địch nhảy dù tập kích phía sau vào hậu phương trực tiếp của chiến dịch. Rạng sáng ngày 11/12, quân ta đến Pa Ham, chạm lực lượng địch và nổ súng đánh tan 3 đại đội của chúng, tiếp tục tiến về thị xã. Rạng sáng ngày 12/12, ta tiến vào giải phóng Thị xã Lai Châu, đánh tan 1 đại đội địch, bức hàng 1 đại đội khác. Số địch còn lại một nữa chạy về phía Nam, đường đi Điện Biên Phủ, số khác vượt Sông Đà chạy lên phía Tây Bắc. Chiếm được Lai Châu, ta tiếp tục truy kịch địch, đánh tan 1 đại đội của chúng ở vùng Nậm Cáy (cách Lai Châu 30km). Cánh quân thứ hai của ta ở Tuần Giáo cũng tiến lên phía Bắc Điện Biên Phủ, ngày 11/12 gặp lực lượng địch ở Điện Biên lên đón ở Lai Châu về đã chặn đánh chúng ở Bản Tâu (cách Điện Biên 10km), tiêu diệt 2 đại đội quân nhảy dù. Tiếp đó, trong hai ngày 12, 13/12 ta tiêu diệt 5 đại đội địch ở Pusan và Mường Pồn. Tại Mường pồn, sáng ngày 12, Đại đội 674 của Tiểu đoàn 251 Trung đoàn 174 tiến xuống Mường Pồn thì phát hiện trong bản có nhiều quân địch từ Lai Châu, rút về đang tập trung tại đây, Đại đội lập tức tiến hành bao vây và nổ súng đánh địch. Quân địch có máy bay yểm trợ, thấy lực lượng ta ít, kiên quyết xung phong đánh bật ta để mở đường đi về Điện Biên Phủ. Chiến sĩ liên lạc Bế Văn Đàn mang lệnh đến cho tiểu đội Chu Văn Pù giữa lúc cả tiểu đội chỉ còn bốn người đang phải chặn đánh một cánh quân từ trên cao tràn xuống. Chu Văn Pù có khẩu trung liên trong tay nhưng không biết đặt vào đâu. Bế Văn Đàn lao tới nhấc hai chân súng đặt lên vai mình, và giục đồng đội siết cò trút đạn về phía quân địch. Đồng chí Bế Văn Đàn hi sinh, nhưng đợt tiến công của địch đã bị chặn đứng.
Đội hình địch tan rã khắp mọi nơi, chạy toán loạn các hướng. Ta tiếp tục truy kịch địch, không cho chúng chạy thoát sang Thượng Lào. Tại Mường Tòng (cách Lai Châu 14km) ta tiêu diệt 1 đại đội, số còn lại hơn 6 đại đội chạy về phía Mường Chà. Ta tiếp tục theo hướng địch phía Tây Bắc Lai Châu, các cánh quân của ta đuổi kịp đánh hai trận lớn ở Phin Lâm và Nậm Nhé, tiêu diệt 9 đại đội địch.
Sau 12 ngày truy kịch địch, trên một quãng đường dài gần 300km, quân ta đã tiêu diệt và đánh tan 24 đại đội địch với khoảng 2.500 tên trong đó có 2 đại đội nhảy dù và 22 đại đội ngụy. Ta thu 528 súng trường, 148 tiểu liên, 9 súng côi 60mm, 12 vô tuyến điện và vô tuyến điện thoại, trên 1 vạn lít ét xăng, 2 xe zip, 1 xe vận tải, hơn 30 tấn đạn dược, hơn 10 tấn dụng cụ công binh, gần 10 tấn quân trang quân dụng và trên 200 con lừa, ngựa.
Ta đã giải phóng một vùng rộng lớn ở Lai Châu với 8000km2 và trên 2 vạn người sau gần một thế kỷ nằm dưới ách đô hộ của Pháp. Đèo Văn Long, "quốc vương" của xứ Thái tự trị, cùng với gia đình đã được máy bay Pháp đưa về Hà Nội. Lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tung bay trên chiến trường hỗn độn nhưng đã giành được hòa binh, độc lập từ đây.
Thắng lợi này cùng với những thắng lợi khác trên các mặt trận phối hợp trong Đông Xuân 1953 - 1954 như ở Tây Nam Ninh Bình ta đã tiêu diệt trên 3000 quân dịch; ở Bắc bộ sau trận Tây Nam Ninh Bình ta cũng tiêu diệt được 6100 địch và thu 1200 súng các loại; đến cuối tháng 12/1953 quân đội giải phóng Pa Thét Lào lại tiêu diệt 3 tiểu đoàn Âu - Phi, bắt sống 500 tù binh, thu nhiều đại bác, xe vận tải và giải phóng một vùng rộng lớn ở Trung Lào đã khiến cho địch thiệt hại nặng nề, trên 1 vạn quân và phải phân tán lực lượng đối phó tại nhiều mặt trận khác trên toàn Đông Dương. Địch ngày càng lúng túng, bị động đối phó với các cuộc tấn công của ta. Ta giành được thế chủ động và có nhiều lợi thế bước vào cuộc chiến gay go, ác liệt hơn trước khi kết thúc cuộc kháng chiến thần thánh chống Thực dân Pháp xâm lược. /.